Nhà văn Nguyễn Bình Phương: – MÌNH và HỌ – Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội

0
848

Nhà văn Nguyễn Bình Phương
Sinh :1965  tại Thái Nguyên.
Hiện là TBT Tạp chí VNQĐ
Tác phẩm đã xuất bản:
   Tiểu thuyết : Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Những đứa trẻ chết già (NxbVăn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn (NxbThanh niên, 2000), Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội Nhà văn, 2004).Bả giời. Ngồi
Thơ: Lam chướng, Khách của trần gian, Xa thân, Từ chết sang trời biếc, Buổi câu hờ hững . Xa xăm gõ cửa, Thơ Nguyễn Bình Phương.
Giải thưởng văn học:
Buổi câu hờ hững (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2012)
Mình và họ (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2015)…

.                  Nguyễn Bình Phương
.                 đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội

                                                                                                            Trích giới thiệu của Lam Thu
Tác phẩm “MÌNH và HỌ” của nhà văn nhận số phiếu bầu tuyệt đối từ Hội đồng xét duyệt Giải thưởng Văn học 2015 để chiến thắng ở hạng mục Văn xuôi.    
Chiều 7/10, Hội đồng xét giải của Giải thưởng Văn học 2015, Hội Nhà văn Hà Nội công bố sáu tác phẩm, công trình nghiên cứu đoạt giải thưởng năm nay.

tải xuống (4)Tiểu thuyết Mình và họ của Nguyễn Bình Phương giành giải hạng mục Văn xuôi. Tác phẩm được đánh giá là xuất sắc khi “vừa khai triển lối viết phức tạp đa tuyến đa chiều, vừa đẩy nghệ thuật viết tiểu thuyết mang đặc hiệu của tác giả lên một mức độ cao”.

Tác phẩm được Nguyễn Bình Phương đặt bút viết năm 2007, hoàn thành năm 2010, xuất bản năm 2014. Mình và họ viết về chiến tranh biên giới phía Bắc. Nhưng chiến tranh chỉ là một phần của tác phẩm, tác giả đề cập nhiều tới số phận con người. Tiểu thuyết đan xen giữa quá khứ và hiện tại, bên này và bên kia, thực và ảo, chiến tranh và hòa bình…
.                                                                         Lam Thu / VNExpress

 

       Trước nhan đề “Mình và Họ”, tác phẩm có tên là “Xe lên xe xuống” nhưng được xuất bản ở California năm 2011 (cuốn sách gặp trở ngại và bị các nhà xuất bản trong nước từ chối phát hành). Đến tháng 8 năm 2014, cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đến tay độc giả.
…….
Tác phẩm “Mình và Họ” không được viết theo cấu trúc truyền thống là mạch truyện tuyến tính. Các tuyến truyện song song với nhau nhưng do nhà văn đảo lộn các tình tiết trong tác phẩm nên khiến người đọc khó nắm bắt mạch truyện. Truyện sử dụng nhiều yếu tố kì ảo, những hành vi kinh dị và man rợ về việc chặt chém, ăn thịt người. Nếu đọc tác phẩm này mà chúng ta cứ đi tìm những thứ có đầu, có đuôi, logic thì sẽ khó cảm nhận cái hay trong từng đoạn văn. Dù câu chuyệ

Chọn ảnh tiêu biểu

n không được kể theo một trình tự nhất định nhưng vẫn rất hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Trước đây mình chưa biết đến Nguyễn Bình Phương nhưng đây có lẽ là tác phẩm hay nhất mà mình đã từng đọc. Câu chuyện rất cuốn hút nhưng cũng mang lại cho con người ta những khoảng lặng, đặc biệt là vào thời điểm ban đêm. Mình đã rất buồn và sợ, đôi lúc có những chi tiết khiến mình trực chảy nước mắt và cảm giác có cái gì đó rất nghẹn ở cuống họng. Tác
phẩm thực sự đã chạm đến phần tiềm thức và vô thức trong mỗi chúng ta. Bởi “Thế gian này, xét cho cùng, từ khởi nguồn đến giờ, chưa hề mất đi một cái gì, kể cả sự mông muội”
.                                                                                                                                Diệu Hoa – EK62
                                                                                                   

                         Nhà văn Nguyễn Bình Phương:
.                       BẢN CHẤT VĂN HỌC LÀ KÝ ỨC

.                                                                   HỒNG THANH QUANG

Về độ tuổi mà nói, Nguyễn Bình Phương với tôi cũng xêm xêm nhau đôi ba tuổi nhưng không hiểu sao ngay từ khi mới biết anh trên phố Lý Nam Đế, tôi luôn bị ngợp bởi cái cảm giác “cổ kính” không chỉ trong những tác phẩm mà cả trong cách ứng xử đời thường ở anh. So sánh thì bao giờ cũng khập khiễng nhưng tôi cứ thấy anh như một đối cực của mình. Nếu tôi là “chú bé mãi không chịu lớn” như câu  thơ mà tôi từng tự viết về mình thì anh là tác giả của tiểu thuyết nhan đề “Những đứa trẻ chết già”…

Sinh ra ở Thái Nguyên, dân phố thị nhưng cũng có nhiều trải nghiệm nông thôn ngay từ tấm bé vì phải theo gia đình sơ tán về xã Linh Nham của huyện Đông Hưng, Nguyễn Bình Phương vừa lớn lên đã gia nhập quân ngũ năm 1985. Và cũng sớm tới với văn chương. Những tác phẩm đầu tiên của anh được công bố là thơ và những nơi in chúng là báo Văn nghệ và tạp chí Văn nghệ Quân đội…

Chính những sự việc tưởng như không có gì to tát này đã càng làm tăng thêm hứng khởi ở anh và thôi thúc anh rẽ lối vào con đường sáng tạo. Năm 1989, anh lính trẻ Nguyễn Bình Phương đã thi vào Trường viết văn Nguyễn Du. Ra trường, anh được phân về Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi sau đó, chuyển về công tác tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

Từ đó anh chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội làm biên tập viên và dần dà đã trưởng thành lên vị trí hiện nay, Phó Tổng biên tập. Và xét theo thực tế, anh đang thực hiện rất tốt chức trách của mình. Có Nguyễn Bình Phương ở nhà số 4, địa chỉ văn hóa này dường như có sức hấp dẫn hơn với những người yêu văn chương không chỉ ở trong quân đội…Nguyễn Bình Phương bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm ấn tượng của mình từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Ở thời điểm đó, anh đã hòa đồng được với không khí sáng tạo ở Trường Viết văn Nguyễn Du nhưng vẫn rất đậm đà tố chất độc đáo của mình.

Tập trường ca Khách của trần gian (1986) bộc lộ rõ một phong cách lạ lẫm đến huyền hoặc . Tuy nhiên, chính những tác phẩm văn xuôi mới tạo cho Nguyễn Bình Phương một dấu ấn khác lạ đến chấn động, như các tiểu thuyết Vào cõi (Nhà xuất bản Thanh niên, 1991), Những đứa trẻ chết già (Nhà xuất bản Văn học, 1994), Người đi vắng (Nhà xuất bản Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn (Nhà xuất bản Thanh niên, 2000)…

Nhà văn trẻ Nguyễn Quỳnh Trang trong một bài viết về nhà văn Nguyễn Bình Phương đã nhận xét: “Trái ngược với con người có vẻ ngoài giản dị, hiền hòa, nhu hậu, ít nói, chất văn của tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương cũng như chính con người bên trong anh, mạnh mẽ, sắc sảo, thẳng thắn và ưa nhìn kỹ vào sự thật. Nguyễn Bình Phương là nhà văn quân đội, và chất “quân đội” ấy không hề thể hiện ra nội dung tác phẩm, mà ẩn thật sâu dưới bề mặt lớp chữ. Nó mang tính “bí mật” không thể chạm tay, nhìn thấy… mà chỉ duy nhất là cảm nhận.

Chính thế nên đôi khi phản ứng của anh với những thói đời giả trá cũng thật quyết liệt. Chưa từng thấy nhà văn Nguyễn Bình Phương giận dữ, chỉ mới nghe “giang hồ đồn đại”, chưa từng nghe nhà văn Nguyễn Bình Phương gay gắt, chỉ mới biết được thông tin từ phía báo giới, đến khi có dịp gặp anh xác thực, thì anh nói gọn một câu “đúng”, kèm thêm cái gật đầu. Đồng thời, ngồi lâu và đủ thân, sẽ được nghe anh kể kỹ hơn, đủ thấy đúng sai của thông tin, nếu thấy cần…”.

Với cá nhân tôi, Nguyễn Bình Phương trên cả nghĩa đồng nghiệp đã luôn là một người đồng đội mà tôi rất tin cậy ở những quan niệm thẩm mỹ. Không phải tất cả những gì anh viết và nói đều kịp thời tìm ra tiếng vọng ở trong tôi nhưng ngay cả khi tôi chưa thấu hiểu lắm những ý kiến của anh, tôi vẫn chấp nhận chúng như những tư liệu để suy ngẫm.

Và tôi cũng thiển nghĩ rằng, với một nhà văn như Nguyễn Bình Phương, khi ta gặp phải một ý tưởng nào đó không đồng thuận với ta thì ta cũng đừng vội bác bỏ mà nên tiếp tục suy nghĩ… Rốt cuộc có thể ta không hoàn toàn đồng thuận với ý kiến của nhà văn nhưng ta cũng sẽ thấy, nhà văn nói không hẳn đã sai…
– Hồng Thanh Quang:Xin hỏi thật, anh sẽ cảm thấy thế nào khi có ai đó bảo rằng anh là nhà văn trẻ?
Nguyễn Bình Phương: Ở ta, ngoài trường hợp tiện mồm gọi theo tuổi tác cho nó tiện, thì cũng có hiện tượng là có một số nhà văn rất thích gọi người khác là nhà văn trẻ với thái độ kẻ cả, như để phân biệt rằng mình đã là lão làng, có vai vế, còn kia là bọn trẻ ranh. Đại khái cũng buồn cười. Thú thật là tôi chẳng quan tâm lắm tới cách người ta gọi mình thế nào. Với riêng tôi thì gọi tôi thế nào thì năm nay tôi cũng đã 50 rồi, tóc bạc rồi. Tôi nghĩ theo kiểu AQ là Trẻ luôn có cơ trở thành Lớn, còn Già thì đã hết cơ hội Lớn.
Liệu có cái gọi là khái niệm văn học trẻ và văn học già hay không?
– Không có đâu, không hề có. Nếu ai đó cố tình chia nó ra thế thì nực cười lắm đấy. Nói tới văn học là nói tới những tác phẩm, khi nói tới tác phẩm là nói tới giá trị nghệ thuật của chính nó, không mảy may đính kèm file tuổi tác.
Anh đang mang quân phục. Tôi cũng từng phục vụ trong quân đội tới 24 năm. Nhìn lại quá khứ, đặc biệt trong thời gian chiến tranh, phần lớn những cây bút nổi lên trong làng văn đều ít nhiều từng hoặc đang mang áo lính… Theo anh, liệu môi trường này ảnh hưởng thế nào tới phong cách sáng tạo của người cầm bút?
– Tôi có gần 30 năm trong quân ngũ, từ anh lính binh nhì, binh nhất ở đơn vị, được quân đội đào tạo, sử dụng, trưởng thành đến giờ phút này thấy mình hoàn toàn gắn bó với quân đội. Theo tôi, môi trường quân đội đào luyện cho các nhà văn tinh thần nghiêm túc, cẩn trọng, bản lĩnh đơn thương độc mã. Nếu chú ý, anh sẽ thấy các nhà văn quân đội rất bình tĩnh, hầu như không hoắng huýt, đúng không? Cái nữa là, phần lớn tác phẩm nào của các nhà văn trong quân đội cũng có bóng dáng người lính, có bóng dáng của tình đồng đội, thứ tình cảm rất đặc biệt. Đấy chính là dấu ấn ảnh hưởng của môi trường.
Theo cảm nhận của tôi, ngay từ trong những sáng tác đầu tiên, anh đã không mấy hòa đồng vào cái mà người ta gọi là phong cách chung của “dòng văn quân đội”. Tôi đúng hay sai?
– Thực ra tôi cũng có nhiều người nói như vậy về tôi. Và tôi cũng lúng túng. Từ trước tới giờ tôi chỉ biết sáng tác, còn nó thuộc dòng nào thì thú thực, cũng chẳng mảy may quan tâm. Tôi cố gắng viết trung thực nhất với nhận thức của mình, vậy thôi. Nhưng cặn kẽ ra, cái mà anh bảo rằng “dòng văn quân đội” tôi nghĩ hình như không có đâu. Các nhà văn quân đội họ đa dạng, họ chỉ giống nhau ở quân phục chứ phong cách sáng tác của họ rất khác nhau. Không thế, làm sao chúng ta có thể gọi tên riêng của từng người ra một. Nguyễn Khải khác Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Minh Châu khác Lê Lựu, Lê Lựu khác Khuất Quang Thụy, khác Chu Lai. Những anh em hiện nay đang công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội cũng thế, tôi cũng thế. Và nên thế.
Người ta bảo, sinh quán luôn tạo ra những ảnh hưởng cực kỳ quyết định đối với con đường văn chương của bất cứ tác giả nào. Sinh quán của anh là Thái Nguyên. Bây giờ nhìn lại, anh thấy mảnh đất đó đã tác động thế nào đến sáng tạo văn học của anh? Anh có thể kể gì về gia đình anh ở Thái Nguyên?
– Đến giờ phút này tôi nghĩ, rút từ bản thân mình ra, thì đúng là sinh quán quan trọng với nhà văn. Bởi vì xét cho cùng, bản chất của văn học là ký ức chứ không phải đoán định tương lai. Nói cách khác, văn học là cái còn đọng lại trong con mắt nhắm. Tôi viết, cố gắng lôi cái không khí của Thái Nguyên vào, và tôi nhận thấy phần lớn sáng tác của mình đều dính dấp tới vùng đất đó, ngay cả khi đẩy nó tới địa danh khác thì bóng dáng của vùng đất ấy vẫn phảng phất trong từng chi tiết. Mỗi nhà văn có vùng đất của mình và tác phẩm của họ mang “khí hậu” của vùng đất đó. Tôi cho rằng tác phẩm của tôi chủ yếu mang “khí hậu” Thái Nguyên, điều ấy chẳng biết là hay hay là dở nữa.
Tác phẩm đầu tay mà anh công bố và cho tới hôm nay anh vẫn không bị thất vọng về nó?
– Tác phẩm đầu tay, tác phẩm đầu tay luôn là cái gì đó rất khó xử với các nhà văn. Tôi thấy tác phẩm thứ nhất, tác phẩm thứ hai của mình là thứ lẽ ra phải gộp lại để bắt đầu cho tác phẩm thứ ba trở đi. Tôi không thất vọng, không ân hận về tác phẩm đầu tay của mình, nhưng buồn cười.
Anh vừa viết văn xuôi vừa làm thơ và rất khó phân tách hai vai trò này ở anh. Với anh, thế là khó hay dễ?
– Bình thường thôi anh Quang ạ, tôi thấy thế nào thì viết thế ấy, thấy cảm xúc này chỉ viết bằng thơ thì viết bằng thơ, thấy vấn đề này chỉ có thể diễn đạt bằng văn xuôi thì viết văn xuôi. Tôi không băn khoăn về chuyện văn hay thơ, vấn đề lớn nhất là viết có đúng như mình hình dung không, có hay không, có lôi cuốn không. Thể loại, xét cho cùng, chỉ là phương tiện để chúng ta diễn đạt tư tưởng của mình thôi.
Việc anh chọn lựa phong cách riêng cho mình như thế đã ảnh hưởng thế nào tới công việc của anh? Những kỷ niệm vui? Những kỷ niệm buồn?
– Thực ra phong cách là thứ người ta không cố tình chọn được, nó là cái tạng, nó là chân dung nhận thức và thẩm mỹ của tác giả. Có điều tôi thấy rõ ràng là những phong cách khác biệt đều rất chật vật trong xã hội chúng ta. Văn học là thứ hay bị hiểu lầm vì nó đa nghĩa. Vấn đề ở chỗ có những lúc nó bị cố tình hiểu lầm để phục vụ có ý đồ cho cá nhân nào đó. Tôi có hai lần buồn, mà sau này thấy nỗi buồn ấy cũng rất vớ vẩn, lẽ ra không nên buồn vì thói đời nó vậy.
Lần thứ nhất là khi tôi tặng cuốn Thoạt kỳ thủy cho một nhà văn, mấy hôm sau, gặp lại nhau, nhà văn ấy trách tôi rất hồn nhiên: Xã hội đối xử rất tốt với anh đấy chứ, sao anh viết ác thế. Câu đó làm tôi thực sự choáng, buồn và thất vọng. Tôi không hình dung một tác phẩm văn học lại ác. Lần thứ hai, cũng lâu lâu rồi, khi tôi phải ngồi nghe người ta mổ xẻ, diễn giải tác phẩm của mình sai toét tòe loe, gán cho nó những điều mà tôi chưa từng hình dung, ức quá nhưng chịu cứng, không cãi được. Sau này, một người bạn bảo tôi, tạng viết của ông như thế thì ông phải gắng mà chịu. Tôi cũng ngộ ra tí chút. Văn học, về bản chất là bị hiểu nhầm.
Anh từng học ở Trường Viết văn Nguyễn Du, nơi mà theo không ít người đã không hẳn có ảnh hưởng tốt tới quá trình phát triển nghệ thuật của những môn sinh. Anh có đồng ý với cách nhìn này không? Vì sao?
– Tôi quan niệm Trường Nguyễn Du là nơi để những cây bút ở các vùng tụ về gặp gỡ nhau, nạp kiến thức, chứ không phải nơi phát lộ tài năng. Tài năng chỉ phát lộ trong thực tiễn, tức là ở bên ngoài trường. Tóm lại, Trường Nguyễn Du giống như quán ăn tự chọn, anh chủ động chọn món hợp với mình mà ăn, còn anh tham lam, vơ váo, ngốn ngấu thì dễ rối loạn tiêu hóa. Có người học Nguyễn Du ra, điềm tĩnh hẳn, sâu sắc hẳn, vượt lên thành nhà văn cứng cựa, nhưng không ít người học xong thì hoắng huýt, bát nháo một hồi rồi tan biến. Vậy thì rõ ràng vấn đề nằm ở từng cá nhân, có bản lĩnh, biết tiếp nhận thì cực kỳ tốt, còn không thì dễ bị tẩu hỏa nhập ma.
Trong các bạn đồng môn của anh ở Trường Nguyễn Du, những ai đã được anh quan tâm tới nhất, không chỉ đơn thuần trên phương diện đời thường mà chủ yếu là trong sáng tạo nghệ thuật?
– Tôi nghĩ, về thơ thì có Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, nhưng tiếc là cả hai đều đã mất. Về văn thì hiển nhiên là ông Bảo Ninh, ông Nguyễn Khắc Trường. Đó là những người tôi cho là góp phần làm nên danh tiếng của Trường Nguyễn Du.
Anh có nghĩ là có một cái gọi là trường phái “văn học trường Nguyễn Du” hay không? Vì sao anh lại nghĩ như vậy?
– Không hề, điều này cũng giống như “dòng văn quân đội” mà anh đã nói thôi. Nghệ thuật là cá nhân và tài năng. Cùng ở lò Nguyễn Du ra, cùng thầy ấy, chương trình ấy, có anh viết hàn lâm, có anh viết rất bình dân, có anh viết về người hót phân mà cũng rất hay, có anh lấy cả nhà văn ra làm mẫu nhân vật để viết mà cũng chẳng thành văn được. Cá nhân và tài năng bản thân nó đã triệt tiêu cái gọi là trường phái rồi.
Anh từng không chỉ một năm làm biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Giai đoạn đó đã để lại những dấu ấn gì trong ký ức của anh? Anh đã gặp những thuận lợi gì? Đã vấp phải những khó khăn gì?
– Chính xác thì tôi có 10 năm làm biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Đó là thời kỳ cho tôi nhiều trải nghiệm mà sau này tôi mới thấy nó thực sự giá trị. Ví dụ như bản lĩnh biên tập, lòng đam mê, và cả những nhún nhường rất cần thiết. Thời kỳ này, tôi được đọc nhiều, tiếp xúc nhiều, nhất là với những người trực tiếp trải qua chiến trận. Qua tiếp xúc với họ, tôi hiểu thêm phần nào về phẩm cách của người lính. Có những người trong cơ quan cũng khiến tôi thấy quý trọng như Đại tá Phạm Gia Đức chẳng hạn, ông ấy là lính chiến xịn, quần nhau sầy vảy ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Có nhiều chuyện ông Phạm Gia Đức kể cho tôi nghe, tôi thấy hay lắm, nhưng không thể viết ra được.
Tại sao lại không thể viết ra được. Tôi nghĩ với nhà văn thì điều gì cũng có thể viết ra, vấn đề là viết thế nào thôi.
– Không hẳn thế, có những điều mãi mãi chẳng bao giờ văn học có thể dung nạp được nó vì nó vượt ra khỏi mọi cung bậc tình cảm và vượt ra khỏi mọi lí tưởng.
Những cuốn sách nào mà anh từng biên tập đến nay vẫn khiến anh ưng ý? Vì sao?
– Tôi biên tập cũng nhiều, nhưng có một vài tác phẩm khiến tôi nhớ, như cuốn Tuyển tập trường ca chẳng hạn. Đó là cuốn sách tôi khoái vì tôi làm hoàn toàn theo ý mình, đích thân tôi chọn và viết lời nói đầu, hoàn toàn không có bất cứ sự can thiệp nào. Có cái nữa là khi làm tuyển tập ấy, tôi có gặp hầu hết các tác giả trong đó, trừ người đã mất, để trao đổi về độ chính xác của tác phẩm. Sau này khi rời khỏi Nhà xuất bản Quân đội, tôi chỉ mang theo cuốn đó làm kỷ niệm.
Anh chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội từ năm nào? Vì sao anh lại quyết định chấp nhận sự thay đổi công việc này?
– Tôi cũng không nhớ chính xác năm mình sang tạp chí, chỉ nhớ rằng năm đó tôi in cuốn Thoạt kỳ thủy. Và trước khi sang, tôi được mấy bậc đàn anh về tuổi đời cho vài lời khuyên mà sau này tôi thấy họ khuyên đều đúng cả. Lí do tôi sang Văn nghệ Quân đội vì thấy mình cần di chuyển, và đấy cũng là tạp chí tôi yêu quý.
Bây giờ trên cương vị Phó tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh cảm nhận thế nào về hiện trạng và tương lai của cơ quan văn học nghệ thuật từng giữ vị trí hàng đầu trong đời sống tinh thần của chúng ta?
– Không thể phủ nhận được rằng Văn nghệ Quân đội là tạp chí đã từng, và cho tới nay vẫn đang là, tạp chí có chất văn chương cao nhất, đậm nhất, thuần khiết nhất. Tạp chí đã tạo cho mình có một phong vị bài vở riêng. Nhiều người xuýt xoa rằng đã có một thời họ mê Văn nghệ Quân đội, đã có một thời họ cầm nó đi chiến trường và đọc nó giữa hai trận đánh.
Đúng như anh nói, Văn nghệ Quân đội từng giữ vị trí hàng đầu trong đời sống tinh thần của chúng ta, đó là giá trị đáng kính trọng, thậm chí là thiêng liêng. Nhưng tôi cho rằng có một đóng góp quan trọng nữa của tạp chí là đóng góp các tác giả. Những tác phẩm in trên Văn nghệ Quân đội làm nên thương hiệu của tạp chí là hiển nhiên, nhưng cốt lõi nhất để làm nên Văn nghệ Quân đội chính là từng cá nhân các nhà văn làm việc ở đó.
Một sự thật không chối bỏ được, là nhắc tới Văn nghệ Quân đội người ta nhắc tới các tác giả đội mũ đeo sao lẫy lừng. Chưa bao giờ tạp chí là diễn đàn nóng bỏng của văn chương, nhưng nó lại là nơi xuất xưởng những tác phẩm đáng giá làm nên các tên tuổi lớn. Đó là truyền thống rất cần phải giữ và phát huy.Nói thế, nhưng cũng phải nhìn thẳng vào thực trạng rằng đang có một sự hẫng hụt khá nghiêm trọng về đội ngũ, khi những lớp đàn anh rời khỏi tạp chí thì thế hệ sau chưa có sự tiếp nối xứng đáng.
Tôi nghĩ đây không chỉ là trăn trở của những bạn đọc yêu quý Văn nghệ Quân đội, mà còn là nỗi trăn trở của nhiều đồng chí lãnh đạo hiện nay, thậm chí của cả chính những nhà văn đang công tác tại Văn nghệ Quân đội. Quân đội ta có hai “đặc sản” khét tiếng là Thể CôngVăn nghệ Quân đội, thì một đặc sản đã biến mất, chỉ còn lại Văn nghệ Quân đội, nếu nó không giữ được thương hiệu thì thật đáng tiếc.
Theo anh, liệu gắn kết trong đội hình mang tên các nhà văn “nhà số 4” có tạo nên một sự tương đồng nào đó trong sáng tác hay không? Và nhìn chung, đã bao giờ có một sự tương đồng rõ rệt trong sáng tác của các thế hệ nhà văn “nhà số 4”? Anh có thể lý giải được hiện tượng này?
– Tôi nghĩ nếu có thì có một sự tương đồng lớn, chính là đề tài về người lính. Đó là đề tài mà theo như tôi biết nhà văn mặc áo lính nào cũng đau đáu như một món nợ, ngay cả những nhà văn hiện đang công tác. Họ coi đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ và cả lương tâm nữa. Cũng có sự tương đồng thứ hai nữa, là dù phong cách của những nhà văn quân đội rất khác nhau, nhưng chung một điểm là hướng tới sự chân phương, dễ đọc, dễ tiếp nhận.
Mỗi nhà văn khi bước vào con đường nghệ thuật đều có những người đi trước mà họ mến mộ. Với anh, đó là ai? Anh có thể nói chi tiết những gì về họ?
– Tôi không mến mộ một sự nghiệp nào cụ thể, tôi khâm phục theo tác phẩm, mỗi người một tí. Tôi đã có lần nói rằng mình không có thần tượng, chẳng biết điều đó là hạnh phúc hay bất hạnh.
Trong những đồng nghiệp ở nhà số 4 hiện nay, anh lưu tâm tới sáng tác của những ai nhất? Anh có thể nói gì về họ?
– Đa số các nhà văn đang công tác tại nhà số 4 đều có tố chất, có điều kiện, có cả cơ hội nữa, phần còn lại phụ thuộc vào bản lĩnh và ý chí của họ. Vả lại tài năng là thứ chín theo tự nhiên, không thể dùng thuốc kích thích được, bắt buộc phải chờ đợi thôi.
Văn học theo đúng nghĩa của nó luôn là con đường sáng tạo nhiều bất trắc. Anh có đồng tình với nhận định này không? Vì sao?
– Có chứ. Lúc nãy tôi đã nói là văn học, về bản chất là bị hiểu lầm, vì thế bất trắc là điều không tránh khỏi. Sáng tác thì ai chẳng có bất trắc, chỉ có điều nhiều hay ít, trầm trọng hay không trầm trọng. Khi anh sáng tác, tức là anh tạo ra cái mới, cái khác, cái chưa có, thì việc tiếp nhận nó cũng không phải dễ dàng và như vậy sẽ kèm theo bao nhiêu mạo hiểm. Văn chương là dấu chấm hỏi đứng liền sau dấu chấm than, cho nên nó mệt thế. Nhưng có điều này, khi xảy ra bất trắc thì anh sẽ thấy, ai là người tốt, ai là người nhìn thấu tình đạt lý bản chất, ai là người tranh thủ biến tai nạn của người khác thành cơ hội của mình. Bất trắc cũng là dịp để nhà văn chiêm nghiệm về người đời.
Anh nghĩ thế nào về cái gọi là công tác phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay? Anh thích cái gì? Cái gì anh không thích?
– Tôi thấy phê bình hiện nay có vẻ phân luồng rõ hơn là sáng tác, một dòng rất nghiêm túc, đứng đắn, một dòng thì rất à uôm, tạp nhạp.
Một trưởng lão trước đây từng nói đùa rằng, nếu ông chết đi thì hãy chôn theo ông vài ba nhà phê bình văn học. Anh có lúc nào nổi cáu đến mức thế không?
– Không, tôi nghĩ ai làm việc của người ấy, cáu với nhau mà làm gì.
Xin cảm ơn nhà văn Nguyễn Bình Phương!
.                                                                                            Hồng Thanh Quang
Nguồn: CAND

Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này.

                                                                 Phạm Ngọc Tiến/Tiền Phong


                           THI PHÁP KHÔNG GIAN
.                    trong thơ Nguyễn Bình Phương

.                                                                                        Mai Văn Phấn

  .                                                                        Tin vào đêm
.                                                                         Không tin bóng tối

.                                                                                            N.B.P

.       Nguyễn Bình Phương là một trong những gương mặt nổi trội của văn học Việt Nam đương đại sau năm 1975. Trên cả hai “sân chơi” văn xuôi và thơ, ông đều được đánh giá là một trong những “tiền đạo” xuất sắc có lối chơi độc đáo với những đường “pan và zoom” hiếm, khó tìm.
.        Trước khi khảo sát sâu thơ Nguyễn Bình Phương, tôi tìm đọc lại những tiểu thuyết quan trọng đã xuất bản của ông. Những tác phẩm này thực sự cắm từng cột mốc chắc chắn cho hành trình văn xuôi Việt Nam đương đại: “Vào Cõi” (Nxb Thanh Niên, 1991), “Những đứa trẻ chết già” (Nxb Văn học, 1994), “Người đi vắng” (Nxb Văn học, 1999), “Trí nhớ suy tàn” (Nxb Thanh niên, 2000), “Thoạt Kỳ Thủy” (Nxb Hội Nhà Văn, 2004), “Ngồi” (Nxb Đà Nẵng, 2006), “Mình và họ” (Nxb Trẻ, 2014)… Các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Bình Phương cho thấy sự kết hợp linh hoạt và hài hòa giữa kỹ thuật “dòng ý thức” (một xu hướng sáng tác có từ đầu thế kỷ hai mươi, tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, xúc cảm và liên tưởng) với thủ pháp “hiện thực huyền ảo” (một trào lưu nghệ thuật nổi lên ở các quốc gia Mỹ Latin sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan niệm thực tại còn có cả đời sống tâm linh, nhân đức tin, huyền thoại, truyền thuyết và sự màu nhiệm…), làm nên một hiện tượng độc đáo của văn xuôi Việt Nam đương đại. Văn xuôi Nguyễn Bình Phương giúp tôi hiểu hơn về quá trình đổi mới, cách tân thơ trong hành trình sáng tạo của ông. Văn xuôi chính là đất đai, nguồn mạch cho thơ ông đơm hoa kết trái, sinh sôi…
Năm 2015, nhà thơ Nguyễn Bình Phương xuất bản tập thơ “Xa xăm gõ cửa” (Nxb Văn học và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam). Đây là tập thơ tuyển từ các tập thơ đã in, “Lam chướng” (Nxb Văn học, 1992), “Xa thân” (Nxb Hà Nội, 1997), “Từ chết sang trời biếc” (Nxb Hội nhà văn, 2001), “Buổi câu hờ hững” (Nxb Văn học, 2011) cùng những sáng tác mới nhất của ông.

Tôi thường xuyên đọc thơ Nguyễn Bình Phương nhưng luôn có cảm giác nửa như quen nửa như lạ. Quen quen rồi lạ lạ. Đọc kỹ càng thấy lạ. Trong thế giới nghệ thuật của mình, nhà thơ thường sử dụng tư liệu, hình ảnh quen thuộc của thơ “truyền thống” làm nền để sáng tạo những không gian mới mẻ và khác thường. Ông ít khi thay đổi không gian từ khởi đầu bài thơ, mà thường làm biến ảo hình ảnh trong từng mạch thơ, câu thơ. Những hình ảnh này là “chìa khóa” để mở vào những không gian mới, hoàn toàn khác lạ, so với chính không gian mà bạn đọc đã nhìn thấy ban đầu. Có thể nói, những hình ảnh được nhà thơ chọn để làm “mũi đột phá”, sau khi “hoàn thành nhiệm vụ” đã tạo ra những khoảng không mới, nhiều lạ lẫm. Thơ của Nguyễn Bình Phương có thể dung chứa nhiều không gian đan xen hoặc gối lên nhau. Những hiện thực trong không gian đó ẩn hiện, có lúc được tác giả chủ ý làm “méo” những hình ảnh, giống như hình họa bức tranh được vẽ trên thành một chiếc thạp cổ, một mái vòm. Hay giống như bóng một ngọn đồi in trên mặt hồ đang xao động nhẹ…

Có thể tham khảo cách thiết lập không gian thơ của một số tác giả cách tân cùng thế hệ sau 1975 để hiểu thêm những đặc điểm nổi bật của thơ Nguyễn Bình Phương. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Trần Tiến Dũng, ta thấy những “khối lập phương” được dựng lên. Những “khối lập phương” này khi nhìn chính diện là những hình vuông hay hình chữ nhật, được hiện diện bằng những hình ảnh cụ thể, sáng rõ. Và, để bạn đọc hình dung được khoảng không phía sau, nhà thơ đặt vào trong đó những hình ảnh đứt nối, mờ nhòe… Những hình ảnh này tựa những vết chấm rải mờ khi ta vẽ những hình lập phương trong toán học. Thơ hai tác giả này thường khắc họa hiện thực đời sống với cảm giác phóng dật, ngổn ngang, sắc nhọn… Còn trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, những mặt cắt “lập thể” biến hóa hai chiều gây ấn tượng về sự rũ bỏ, tái sinh… Thơ Giáng Vân thấm đẫm tính thiền và gần với Siêu thực, cho ta sự quán tưởng về một thế giới trong suốt và tĩnh lặng. Hoặc thơ Nguyễn Đức Tùng gần đây dung chứa nhiều không gian tiếp nối, đóng-mở bất ngờ, làm hiển lộ những vẻ đẹp như thoảng hoặc, như miên viễn…

Thơ Nguyễn Bình Phương có lối cấu trúc không gian khác biệt so với thơ các tác giả tôi vừa dẫn. Ông vận dụng lối kiến trúc hài hòa và tinh tế của phương Đông, kết hợp với cách tạo hình trong không gian ba chiều của chạm lộng – một nghệ thuật chạm khắc dân gian của người Việt. Tôi hình dung bề mặt không gian thơ Nguyễn Bình Phương ít gai góc sắc nhọn và thường được làm cho phân tán, lu mờ đi. Chúng giống như một vòm cây có gió, một mái đình trong sương sớm, hay một đám mây hơn là dãy núi trùng điệp, những đỉnh tháp… Những thi ảnh khi được nhà thơ “điều khiển”, biến hóa đã làm bề mặt không gian thơ thay đổi. Tôi cảm nhận những hình ảnh ấy thường bị “uốn cong” thay vì bị bẻ gập, đứt đoạn như thơ của một số tác giả khác. Tôi gọi đây là không gian thơ độc đáo được tạo nên bởi thi pháp Nguyễn Bình Phương.

Qua năm tập thơ đã được công bố, chúng ta có thể hệ thống được cách tạo dựng và bài trí không gian thơ của Nguyễn Bình Phương. Vị trí của những hình ảnh, tư liệu trong đó được ông sử dụng thường ít dịch chuyển, hoán đổi, hoặc đảo lộn như thơ của một số tác giả cách tân cùng thế hệ. Nhìn từ góc độ chủ thể sáng tạo cũng như người tiếp cận văn bản, theo tôi, “biến động” của một bài thơ là diễn trình tư tưởng kết hợp với sự lan tỏa của cảm xúc. Kết thúc “diễn trình” ấy, trật tự hình ảnh trong thơ Nguyễn Bình Phương thường ít thay đổi. Xin dẫn các câu thơ sau đây: Kia bông hoa nức nở trong yên tĩnh/ Trăng hoang vu lượn sóng triền đồi/ Kia chiếc lá chót cành/ Hơi thở cuối/ Run lên trời không mây (Biền biệt). Trong trường hợp này, “bông hoa”, “trăng”, “triền đồi”, “chiếc lá”, “hơi thở”, “mây” đã làm xong bổn phận trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương. Chúng ít khi tái hiện trong những khổ thơ tiếp theo bằng những dáng vẻ, thân phận khác. Mặc dù những hình ảnh ấy vẫn ở vị trí cũ như lúc mới xuất hiện, nhưng “ánh sáng” của chúng đã mở ra những không gian khác, với những hướng chuyển động khác.

Tôi xin dẫn thơ của nhà thơ Trần Tiến Dũng để so sánh. Trong khổ thơ sau, hình ảnh con chim được nhà thơ cho xuất hiện trong những khoảng không giao nhau và đặt trong liên tiếp câu nghi vấn rời rạc, do đó, liên tục biến hóa, thay đổi: Được gì khi là chim?/ Bóng rớt xuống đất là phân/ Được gì khi có cái nhìn chim?/ Ánh sáng là thực phẩm/ Được gì khi ý thức tự do chim?/ Đưa ngực ra gió (Đưa ngực đón gió). Hoặc hình ảnh chiếc giò quẩy và tách cà phê cứ “nhào trộn” cùng tâm trạng của nhà thơ trong khổ thơ sau: Trong tách cà phê cặn của gã làm thơ/ Chập chờn bóng miệng, mắt, bàn tay/ Thơ của ai và khi nào/ Nửa khúc giò quẩy rủ mềm mép tách/ Nửa khúc đi vào thế giới ngon miệng trong áo khoác thẫm đen (Giò quẩy và tách cà phê).

Trong thơ của Nguyễn Bình Phương, thoạt đầu, những hình ảnh xuất hiện thường gợi cảm giác hết sức quen thuộc, gần gũi. Đôi lúc, dường như nhà thơ còn có ý “trêu đùa” bạn đọc. Có thể hình dung như ta đang bước vào một ngôi nhà quen thuộc với cách sắp đặt nhàm chán của chủ nhà. Đó cũng là cách Nguyễn Bình Phương dắt người đọc vào thơ mình trong nhiều câu thơ mở đầu. Những câu mở đầu này thường tối giản và dung dị. Như giọng “mời khách” nhỏ nhẹ, khiêm nhường: Mưa đằng đông (Mùa), Tháng Tám phơi áo bờ rào (Bài hát vu vơ), Tôi nhón gót về (Làng Phan), Cô gái đến với anh (Hình ảnh cuối cùng), Tít phía chiều (Không tên), Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh (Hỏi), Vậy nhé (Khoảng giữa), Và đêm nay (Đồng ca), Bầy ngựa phi (Canh Ngọ), Chạm vào cỏ trắng (Khuya nào), Nai kêu (Ở Định Hóa), Một cái chức nhỏ nhẹ (Gửi những khổ sở), Rồi ai cũng biết (Miêu tả những ngày mưa) v.v.

Cảm giác quen thuộc vẫn tiếp tục đến với bạn đọc khi đã bước hẳn vào bên trong ngôi nhà thơ của Nguyễn Bình Phương. Trong đó là những hình ảnh đặc trưng không gian văn hóa Việt: Qua bức tường đổ hàng xóm chửi nhau/ Mồ ông cha cày xới/ Con Thà Khèo ngồi bậu cửa phì phèo hút thuốc (B – Sang thị xã, trường ca Khách của trần gian); Bức tường hoa sứ đổ/ Còn lại bóng chỗ ngồi (Bài thơ 5 khổ). Thậm chí, còn bắt gặp những hình ảnh cổ xưa hiện về trong không gian hiện đại, đa điểm nhìn của Nguyễn Bình Phương: Gió tắt một ngọn đèn dầu/ Em mặc áo the em ra nơi hẹn (Áo đêm); Rót một chén rượu/ Mùa đông đỡ hoang tàn (Rượu một mình), Hỡi ai mà bỏ đi trăng lác đác (Cái bóng)… Lại có khi là sự pha trộn nhuần nhuyễn và có phần ma quái giữa không gian thuần Việt với cách nhìn hài hước, diễu nhại hiện đại: Không em/ Ngày rũ mình bước lên bản chữ Nôm cũ kỹ/ Và ai đó không phải là gà/ Cất tiếng gáy (Không em).

Tương tự, trong bài thơ “Bâng quơ”, Nguyễn Bình Phương như đã trải một “tấm chiếu cạp điều” mời khách vào ngôi nhà thơ của ông: Dưới gầm trời ẩm ướt/ Người cuối cùng đang nghĩ về em. Theo thói quen, khi bước đến ngõ một ngôi nhà đã biết từ trước, người ta thường đi lướt qua mà ít chú ý tới những hình ảnh quá quen thuộc, như giàn trầu không, con mèo tam thể, cây cau, vại nước… Nhưng với thơ Nguyễn Bình Phương lại khác. Quen đấy mà chỉ dạo vài bước thôi, chúng ta sẽ được chứng kiến một trong những hình ảnh thân thuộc kia bỗng nhiên biến hóa khác thường, không thể dự đoán. Chính thế, nên tôi tự hỏi, những hình ảnh tiếp theo này trong bài thơ “Bâng quơ” đang di động trong thế giới nào, cõi âm hay chốn dương gian: Người cuối cùng lắng nghe tiếng chuông/ Ngân nga lên tóc em lên làn da xa thẳm…/ Khung cửa hẹp bỗng làm anh hồi hộp/ Có một người trở về sau ánh chớp/ Lặng lẽ mang đi hư ảnh cuối cùng. Hình ảnh “một người trở về sau ánh chớp có thể ví như viên sỏi đang vỡ ra trong miệng gây cảm giác như nó phát nổ, mà lúc đầu ta ngỡ đó là món ăn quen thuộc. Cách “chế biến” này của Nguyễn Bình Phương làm cho những “thực khách” vốn khư khư giữ lấy những món ăn khoái khẩu sẽ cảm thấy dị ứng, khó chịu. Nhưng sau “vụ nổ” của “viên sỏi” kia, người đọc bắt đầu biết hoài nghi với những quan niệm cũ, biết thay đổi sở thích, và quan trọng hơn, có được nhận thức khác về vẻ đẹp của những giá trị mới.

Những “vụ nổ” như vậy thường diễn ra trong từng phân mảnh thơ Nguyễn Bình Phương. Những phân mảnh ấy là những hình ảnh, tâm trạng, những manh nha của tâm cảm, linh cảm… Có lúc chúng đứng yên để phát sáng, hoặc chuyển động để làm biến đổi các chiều kích của không gian và thời gian trong thơ. Và khi phát sáng, chúng lập tức làm đảo lộn mọi trật tự, đào sâu thêm nền tảng vốn ổn cố như bạn đọc vẫn tưởng. Hoặc nó tạo ra một ngôi nhà khác với nền móng hoàn toàn khác biệt. Nguyễn Bình Phương đã làm thay đổi tuyến tính, các chiều kích, biên độ tưởng tượng trong một bài thơ. Thủ pháp này chính là “bí quyết” để tạo ra những khoảng không riêng biệt trong các tập thơ của ông.

Tôi xin dẫn một số câu thơ tiêu biểu, cho thấy phần nào thủ pháp tạo lập không gian độc đáo của Nguyễn Bình Phương. Đây là cách ông lấy một hình ảnh trong câu thơ vừa xuất hiện để mở cánh cửa vào một bầu trời khác: Một người be bé mơ thấy sóng/ Sóng trở mình xoá trắng mộng bể Đông (Ẩn dụ); Mây đêm bay về phía chân trời/ Chân trời run rẩy sáng... (Thật xa xôi). Có lúc nhà thơ biến những khát vọng, những câu trả lời thành hình ảnh cụ thể, gợi cảm: Có một đêm vô hình cao chất ngất/ Sáng nào tới được (Xa thân); kìa cô em lúm đồng tiền xinh xinh/ Là bác sỹ hay là gì ấy nhỉ?/ Hun hút hành lang hẹp… (Hỏi); Chúng ta nhìn thay người thương binh ấy, vào ban mai, vào trưa, vào sẩm tối. Đêm thì anh nhìn giúp chúng ta (Về một người thương binh hỏng mắt). Hoặc, nhà thơ dùng một hình ảnh khác để làm xuất hiện thần thái những hình ảnh vừa được dựng lên trong câu thơ vừa viết: Bạn bè đi làm kiếp vợ chồng/ Đom đóm yêu nhau lập lòe chốn cũ (Nhập chiều); Ngoài chuồng trâu vọng tiếng cọ sừng/ Một người nựng con/ Phát con/ Rồi ru/ Một người xách đèn đi vào sương mù (Ngày đông), Xa xa/ Dưới lòng đất ẩm/ Bộ xương cá rùng mình lặng lẽ ấm dần lên (Hồi lại)… Những câu thơ tôi đánh dấu (gạch chân) chính là “cái huyệt” trong những bài thơ của Nguyễn Bình Phương. Chúng xuất hiện, làm đảo lộn khoảng không, vây lấy những hình ảnh tưởng như bất động trước đó. Những hình ảnh ấy như được ai vẽ lên một mặt giấy, một bức tường…. Rồi bất chợt trở nên sống động trong một thế giới khác. Phía sau những hình ảnh kia chính là một cánh cửa, một khoảng không khác thường hay một đường hầm nối vào sâu hút. Những câu thơ làm “huyệt”, làm “mắt bão” ấy của Nguyễn Bình Phương tựa chiếc cầu bập bênh bỗng nhiên thả bỗng hoặc bật tung người bạn chơi ở đầu bên kia lên.

Thơ Nguyễn Bình Phương đã kết hợp tổng hòa các khuynh hướng hiện đại (Tượng trưng, Siêu thực, Dã thú, Biểu hiện, Trừu tượng…). Đồng thời, ông tiếp biến lối viết “dòng ý thức” kết hợp với “hiện thực huyền ảo” của tiểu thuyết để làm nên một thế giới thơ xô lệch độc đáo, đa điểm nhìn. Đồng thời, hiện thực thơ Nguyễn Bình Phương thường được hiển lộ và chuyển động trong không gian huyền ảo, mộng mị, tâm linh… Đó là thế giới của linh hồn, của quá khứ, của tâm tưởng, có khả năng hiển lộ cùng đời sống dương gian.

Khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bình Phương xuất hiện những nhân vật, có tích truyện. Có thể gọi những bài thơ này là truyện cực ngắn được viết bằng ngôn ngữ thơ ca. Những nhân vật trong bài thơ thường được ẩn hiện trong một thế giới huyễn ảo, siêu thực, dìu bạn đọc vào những cảm giác mê sảng, đặc biệt ấn tượng. Bài thơ “Cắt tóc” có “cốt truyện” khá độc đáo, thú vị. Nhân vật “Tôi” ngồi cắt tóc “kín đáo nhếch môi cười” để mặc cho khuôn mặt cùng những sự thật sau bức tường kia già đi theo thời gian. Bài thơ/ truyện cực ngắn này có cái kết mở gây bất ngờ: Một người cực lạ/ Rũ khăn choàng váng vất bước ra.

Đọc thơ Nguyễn Bình Phương, tôi thường “cảnh giác” với những hình ảnh tưởng như thân quen đấy, bỗng chốc chúng có thể biến thành những vị thần, linh hồn/ ma quái, sinh khí/ thán khí… Những hình ảnh dưới đây tựa những linh vật trong Bái-Vật-Giáo, một tín ngưỡng tiền tôn giáo, thờ cúng các vật như đỉnh núi, gốc cây, con sông, bến nước…: Đom đóm lập loè bay qua thành phố/ Để lại nụ cười mơ hồ xanh (Áo đêm); Cuối cùng/ chiếc gương cũng trào ra những bóng hình ứ đọng (Ở nơi không có cánh); Chết không thở cùng hoa/ Thở cùng người đàn bà xa lạ (Nhẹ)…

Tạo ra hiện thực không gian “uốn vặn” đặc thù là một thủ pháp nghệ thuật, cũng là một đặc trưng thi pháp nổi bật trong suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương. Tôi có cảm nhận không gian ấy được ông tạo dựng, giáp nối bằng những “mặt cong” có sắc thái khác nhau. Ở tập thơ “Lam chướng”, những “mặt phẳng” không gian được kiến tạo (uốn/ bẻ/ gò/ hàn/ đan/ ghép/ xô lệch…) có phần đơn giản hơn những bài thơ viết sau này. Hiện thực không gian trong giai đoạn đầu này được Nguyễn Bình Phương dựng lên bảng lảng, sương khói, mơ màng như bức tranh lụa. Những sự kiện đồng hiện thường dung dị, ít chồng lấn và sáng rõ hơn những bài thơ trong tập thơ “Buổi câu hờ hững” và cả sau này. Tuy vậy, không gian thơ trong “Lam chướng” vẫn là những hiện thực không gian “cong” như tôi đã viện dẫn. Hình ảnh trong “Lam chướng” có thể ví như những hình họa trên bề mặt những chiếc bình gốm với những đường men rạn tự nhiên, đầy hấp dẫn. Nhưng ở những tập thơ tiếp sau này, không gian thơ Nguyễn Bình Phương thường được đan xen, mấp mô, chồng lấn nhiều hơn.

Trong bài thơ “Không đề” (rút từ tập thơ “Lam chướng”), những hình ảnh xuất hiện trong khổ đầu bài thơ tựa những con số trên bảng máy tính. Chúng được liệt kê một cách dung dị và hiền lành: Có người lính chống cằm nhìn vỏ đạn/ Có đàn ri bay qua nóc nhà thờ/ Có dòng suối chảy qua những tầng rễ/ Có góa phụ chít khăn bằng sương. Ở những câu thơ mở đầu này, từng “con số” kia vẫn nằm im. Chúng chỉ thực sự hoạt động (cộng, trừ, nhân, chia…) khi bàn tay của nhà thơ đánh thức chúng bằng câu thơ sau: Đêm nay nước mắt giáng trần/ Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ/ Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con. “Con đom đóm” được nhà thơ đặt vào “giấc ngủ trẻ con”, theo tôi, là một hành động khác thường mà chỉ Nguyễn Bình Phương mới làm được. Hành động ấy kết nối tất cả những hình ảnh rời rạc tưởng như nằm yên trong khổ thơ đầu. Cách tạo những “mặt cong” trong trường hợp này khá giản dị, tuy vậy, tác động của nó lại gây nhiều bất ngờ cho bạn đọc.

Thơ Nguyễn Bình Phương giai đoạn kế tiếp trở nên đa diện hơn trong cách hiển lộ hình ảnh và sắp đặt không gian. Những tư liệu, hình ảnh mang theo nhiều tâm trạng được nhà thơ sử dụng trong bài thơ thường sắc lạnh và rời rạc hơn trước khi nó được “uốn cong”. Như hình ảnh những người bán hàng mã trong bài thơ “Hàng mã rong” hiện lên vật vờ, phiêu diêu và “Đi êm ru sang phía tờ mờ”: Họ không tới ngày mai những ngày mai chết lặng/ Lồng ngực thời tiết trái tim chẳng rộn ràng/ Trái tim đập lầm lụi dưới gót chân/ Sau mỗi bước cửa thời gian rùng mình lại mở. Trong bài thơ “Miêu tả những ngày nắng”, người đọc còn có thể nghe rõ tiếng va đập hỗn độn của đời sống công nghiệp. Cách sắp đặt hình ảnh tạo nên những khoảng không gian hẹp đan gối: Một bầu trời phẳng lì/ Không mây không gì cả/ Tường chói tiếng nói chói/ Chói tấm biển chỉ đường ra ga/ Gương chiếu hậu quắc lên quái gở.

Bài thơ “NBP” sau đây mang đặc trưng cách thiết lập không gian của Nguyễn Bình Phương giai đoạn tiếp sau “Lam Chướng”, và, được ông sử dụng tới tận bây giờ.

NBP

Những bóng tối lảng vảng trên tóc
Trên mặt sông rút dải làn sương bạc
Trong giấc ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác
Đã trở về
Khuôn mặt nước giếng khơi rạng rỡ

Tôi châm thuốc ra ngoài gặp cỏ
Nghĩ đến mình nghĩ đến mình thật nhiều
Nhắm mắt lại và từ từ hiển hiện
Một vườn mía ngọt lúc trăng lên

Tin vào đêm
Không tin bóng tối
Những ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi
.

Bài thơ có ba khổ, nhưng không mang tinh thần “tam đoạn luận” như thường gặp trong một số bài thơ truyền thống. Mỗi khổ thơ trong bài dung chứa từng không gian riêng với đa dạng tình cảm và tâm trạng. Ở khổ thơ đầu có hai điểm nhói sáng, tôi gọi đó là hai vị trí tác giả đã chọn để “uốn cong”: “Trong giấc ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác” và “Khuôn mặt nước giếng khơi rạng rỡ”. Còn trong hai khổ thơ sau, vị trí để “uốn cong” đều nằm ở câu thơ cuối cùng của khổ: “Một vườn mía ngọt lúc trăng lên” và “Những ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi”. Nối bốn điểm sáng trong bài thơ “NBP” lại, bạn đọc sẽ hình dung một không gian rộng lớn, với những hình ảnh nổi, sống động tựa như xem một đoạn phim 3D, 4D… Những “mặt cong” này cho ta hình dung rõ nhất về chân dung Nguyễn Bình Phương, một thi sỹ với đầy những âu lo hoài niệm, nhưng luôn tin vào những điều tốt đẹp sẽ tới.

Sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những thủ pháp tạo không gian của nhà thơ Nguyễn Bình Phương. Ông thường chọn lối diễn đạt gây ám ảnh dai dẳng, mơ hồ hơn là những cách nói bộc trực, đập mạnh vào cảm giác trực tiếp. Cách sử dụng từ ngữ gây nhiều ảo giác mộng mị, gợi sự tan loãng, phân rã… càng tạo cho thế giới thơ Nguyễn Bình Phương thêm đa chiều những hướng mở. Những hình ảnh như được “tăng diện tiếp xúc” với thế giới bên ngoài. Và chúng thường hiển hiện như những ngôi sao ở xa, nhấp nháy, đa bội…

Cách nhà thơ dùng điệp từ, hoặc nhắc lại hình ảnh trong một câu thơ nhằm cố ý hãm những chuyển động của chúng chậm lại cũng rất đáng chú ý. Có con chim nâu trong bông hoa nâu (Khuya nào). Nhuốm gót theo ôi đầm sương là sương (Cái bóng). Người ngồi cạnh sông người nói với sông (Đêm ngà ngà). Tơ hồng vàng giăng trước ngôi nhà vàng (Lời hứa muộn). Chầm chậm chầm chậm bò giữa nắng (Hành trình). Mơ theo mưa mưa dắt anh đi (Chớp mắt Huế). Không phân biệt trời xanh mái nhựa xanh (Không phân biệt). Ngày hoa bán đầy phố/ Đêm phố đầy bán hoa (Khoảng giữa). Tường chói tiếng nói chói (Miêu tả những ngày nắng)…

Cách đặt tên những bài thơ của Nguyễn Bình Phương cũng nằm trong chủ ý thiết lập không gian riêng của ông. Tôi chậm rãi xướng tên những bài thơ sau và tưởng tượng đó là những âm vọng của tiếng động, giọng nói, hay tiếng cầu nguyện của những tín đồ được hắt xuống từ một mái vòm nhà thờ: Nhập chiều, Biền biệt, Khuya nào, Nhẹ, Thầm, Hồi lại, Mở lời, Đêm ngà ngà, Vọng từ giá sách, Chớp được, Thế giới mười hai dòng, Thời soi sáng, Người chèo đò lạnh, Ở nơi không có cánh, Những rơi, rơi và rơi

Nhà thơ thường chọn những từ có hàm nghĩa khó xác định vị trí, số lượng cụ thể làm điểm dừng, đầu nối cho những hình ảnh chuyển động: sương, mưa, mây, gió, cỏ, sao trời, khoảng trống…: Họ hân hoan chờ anh ở nơi mây sẽ dừng (Kẻ ngoài cuộc); Một cái gì tròn vo như lạc thú/ Lim dim chờ cú sút/ Bay thẳng vào khung thành mờ sương (Chơi với con); Không ngồi thì đứng vững cùng mưa (Gửi những khổ sở); Ta nhìn ta mai mái một làn sương (Nhà thơ); Tôi áp tên tôi vào cơn gió (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau); Những cuộc đời quanh co vô tận/ Lơ mơ cỏ và sao/ Chẳng ai biết kết thúc ở nơi nào (Hành trình); Kìa ai cặm cụi khắc vào khoảng trống những nét u trầm ( Khắc vào khoảng trống)…

Hiện thực những “mặt cong” là không gian được dựng lên trong suốt hành trình thơ Nguyễn Bình Phương. Độ “cong” nhiều hay ít của những “mặt phẳng” hiện thực ấy tuy có khác nhau qua mỗi giai đoạn sáng tác, nhưng luôn là những quan niệm nhất quán làm nên thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương. Thi pháp ấy được thể hiện trong cách thiết kế không gian, định vị từng hình ảnh, cách lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt…

“Xa xăm gõ cửa” là tập thơ tuyển đánh dấu chặng đường hơn hai mươi năm sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Bình Phương khi ông mới qua tuổi năm mươi. Song hành với văn xuôi, thơ Nguyễn Bình Phương đã mang đến cho đời sống văn học chúng ta một không gian mới, sinh khí mới, đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới, làm phong phú và đa dạng nền văn học Việt Nam đương đại. Theo tôi, Nguyễn Bình Phương là một trong số những tác giả có thể đem ra “đặt cược” cho giá trị tinh thần trong quá trình hội nhập.
.                                                                                                       M.V.P. 2/2016

 

BÌNH LUẬN