LUẬN BÀN VỀ NỖI BUỒN CHIẾN TRANH:
” Là một sự xúc phạm, một sự thách thức đối với xã hội, đối với lương tri của con người.”
LINH HÒA
Những năm qua, tình hình lý luận phê bình văn học đã có một bước chuyển biến mới, đã xuất hiện một số tác phẩm lý luận phê bình tốt của các nhà lý luận phê bình tâm huyết. Tuy nhiên, trong không khí hào hùng chung đó, bên cạnh những nhà lý luận phê bình chân chính đầy thiết tha trăn trở trước một nền văn học đổi mới có định hướng đúng, cũng đã xuất hiện một số cây bút lý luận phê bình có ý đồ xấu. Kỳ này chúng tôi đăng bài của tác giả Linh Hòa, nhằm trao đổi về công tác lý luận phê bình văn học gần đây để bạn đọc rộng đường dư luận.
*
Sách viết về chiến tranh, nhất là ra đời sau chiến tranh được bạn đọc chú ý, nhất là trong giới nghiên cứu lý luận phê bình. Một trong những cuốn sách đó có “vấn đề” là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thông thường, “vấn đề” thường nảy sinh khi con người hiểu rằng những sự hiểu biết của mình hiện có không đủ cơ sở để cắt nghĩa hết mọi việc. Vì vậy phải tiếp tục làm sáng tỏ những hiểu biết ấy. Có thể coi “vấn đề” là một hình thức đặc biệt của “mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết ” như có người quan niệm mà là mâu thuẫn được nhận thức.
Trong khi Nỗi buồn chiến tranh bị đông đảo bạn đọc lên án thì một số nhà phê bình lại ca ngợi, tất nhiên với mức độ khác nhau. Nhà phê bình trẻ Huỳnh Như Phương cho rằng: Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết của sự cứu rỗi (Những tín hiệu mới, tr.70). Trong tập tiểu luận, phê bình của mình, Phong Lê lại viết: “Tôi đã đọc một lần Thân phận của tình yêu (một cái tên khác của Nỗi buồn chiến tranh) nhưng rồi lại quên ngay cái thân phận, cái số phận, để bị ám ảnh bởi một nỗi buồn. Một nỗi buồn có lý, đầy trăn trở, và do thế mà làm sâu sắc thêm đời sống tinh thần của con người. Cũng do vậy mà có giá trị thanh lọc và tẩy rửa. Và tôi nghĩ, đó mới là tiếng nói của nghệ thuật ” (Văn học và công cuộc đổi mới – Nxb Hội Nhà văn 1994, tr.143).
“Sự cứu rỗi”, “thanh lọc”, “tẩy rửa”, “là tiếng nói của nghệ thuật” được hiểu như thế nào đây khi cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của dân tộc đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình vì tự do và độc lập? Đáng lý ra văn học về chiến tranh phải phác họa ra hình ảnh con người xả thân vì nghĩa lớn, sức mạnh tinh thần của con người thắng bạo tàn, mở cánh cửa của quá khứ để cho thế hệ tương lai thấy một lý tưởng cao đẹp như trong những huyền thoại của ông cha ta ngày xưa dựng nước. Văn học có gì khác hơn là bồi dưỡng tâm hồn con người để sống và chiến đấu cho cuộc sống hàng ngày. Và phải chăng cái đó mới là tiếng nói của nghệ thuật.
Về Nỗi buồn chiến tranh, Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã không giấu giếm nói lên một điều: “Thảo luận về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh như một tác phẩm về chiến tranh, chúng ta thường quên rằng, tác phẩm này là sự thắt của ba đề tài: chiến tranh, tình yêu và đam mê sáng tạo nghệ thuật. Tư tưởng của cuốn tiểu thuyết là ở chỗ thống nhất của ba đề tài: Trong chiến tranh cũng như trong tình yêu và sáng tạo nghệ thuật luôn có sự chập chờn giữa thực và giả, được và mất, tin và ngờ, hạnh phúc và đau khổ, hy vọng và tuyệt vọng… Một sự chập chờn đầy rẫy những bất định và bất trắc, lầm lạc và phi lý… Bảo Ninh đưa người đọc vào cõi của những sự chập chờn, bất định và một sự cảm nhận sâu sắc về cõi này đâu có làm chúng ta kinh hãi và tuyệt vọng; rồi vẫn có những chiến công bên cạnh những “thành tích” nhại chiến công, vẫn có tình yêu để phân biệt những gì giống tình yêu, vẫn có những đam mê nghệ sĩ trong ngàn vạn con thiêu thân lao vào ảo ảnh nghệ thuật… Có những tư tưởng nảy sinh ngoài cõi chập chờn, bất định nhưng phải trải qua cõi này thì mới có triết học”… Tác giả còn nói tiếp: “Cõi chập chờn, bất định là cõi đắc địa của tiểu thuyết – Bảo Ninh mới mon men bước vào cõi này đã không ít độc giả ngỡ ngàng đọc tác phẩm của anh. Có lẽ họ chưa quen đọc tiểu thuyết” (Tạp chí Văn học, số 4-1995, tr.9).
Ý kiến của Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến xem ra có chiều đậm nét hơn hai ý kiến nói trên. Có một điều trước hết cần phải nói là giáo sư đã coi thường độc giả nước nhà, cho họ là “chưa quen đọc tiểu thuyết” (?) Thế thử hỏi các tác phẩm như Gargantua và Pantagruel của Franois Rabelais, Don Quichotte của Miguel de Cervantes, Hội chợ phù hoa của W.M. Tharkeray, Đỏ và đen của Stendhal, Tấn trò đời của Balzac…, Tam quốc, Thủy hử, Hồng lâu mộng… của Trung Quốc, Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm, Con đường đau khổ, Bão táp… của văn học Xô viết được dịch sang tiếng ta bán cho ai và ai đã đọc? Không những thế, bạn đọc còn cảm nhận được loại tiểu thuyết hiện sinh đích thực của J.P. Sartre, A. Camus v.v… và cũng đã từng phê phán loại tiểu thuyết ấy. Và không có gì đáng làm ngạc nhiên khi Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nhập thân ca ngợi Nỗi buồn chiến tranh vì nó mang máng, thoang thoáng nhân vật trong tiểu thuyết hiện sinh. Cái mang máng, thoang thoáng ở đây chính là “cõi chập chờn bất định”, là “cõi đắc địa của tiểu thuyết” như giáo sư nói. Đã là “chập chờn” có nghĩa là nửa tỉnh, nửa mê, khi mờ khi tỏ. “Chập chờn” rồi còn “bất định” thì tầm nhìn lịch sử và xã hội bị cảm nhận là “phải trải qua cõi này thì mới triết học”. Nếu không nhầm thì đây là thứ triết học không phải của chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều đó đã rõ như ban ngày và cũng chẳng có gì mới đối với chúng ta.
Chắc các anh và giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã đọc bài “Bàn về “tính duy ý” của văn xuôi và “tính phi lý” của thơ của Henri Barbusse, tác giả tiểu thuyết nổi tiếng về chiến tranh, viết:
“ Không có một nghệ thuật nào có sức mạnh mà lại thiếu lý trí, trí tuệ được… Xa rời, đoạn tuyệt với quy luật của trí tuệ, lý trí là không thể chấp nhận đối với sáng tạo nghệ thuật. Chỉ có trí tuệ – cái vốn không thể thiếu được trong mọi lĩnh vực, không thật cụ thể và cũng không thật trừu tượng mới cho chúng ta khả năng để tạo nên tất cả giá trị tác phẩm… và bất cứ một mưu toan nào hạ thấp vai trò của trí tuệ cũng như hạ thấp vai trò của nghệ thuật”. Nếu như cây bút nghiên cứu phê bình Hoài Thanh sống trở lại chắc ông tủm tỉm cười khi đọc những dòng chữ “đó mới là tiếng nói của nghệ thuật” của giáo sư Phong Lê, là “cõi đắc địa của tiểu thuyết” của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến vì rằng các vị không thực hiện được nhiệm vụ của kẻ hậu sinh khả úy mà còn dẫm lên một quan điểm văn học nghệ thuật sai lầm như ông đã mắc phải trước năm 1945.
Điều rất lấy làm tiếc, nhất là đối với giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã xúc phạm đến bạn đọc nhiều thế hệ khác nhau và đã đưa họ vào mê hồn trận trong trận đồ bát quái của một thứ lập luận xa lạ, không xuất phát từ thực tế nước ta. Đổi mới không có nghĩa là vơ lấy cái cũ mèm, kể cả cái mới của người khác khi quần chúng nhân dân ta, bạn đọc của chúng ta không chấp nhận nó. Bài học của người đứng trên bục giảng, của người cầm bút phê bình còn là lương tâm và trách nhiệm, không thể nửa tỉnh nửa mê trong đánh giá các sự kiện có “vấn đề” như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Trong trường hợp này điều cần làm là phải “thanh lọc”, “tẩy rửa” mới đúng.
Chúng ta thấy rõ hoàn cảnh có “vấn đề” nhờ sự va chạm tích cực và tính tự giác của con người với môi trường xung quanh. Và chỉ có như vậy con người mới có ý thức về những mâu thuẫn đang nẩy sinh ra trong cuộc sống.
w Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (1-11-1995)
*
THẤM ĐÒN QUA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
THANH LÊ
Có người cho rằng đứng trước dư luận rộng rãi, các anh đã rũ bỏ (phủi tay) trách nhiệm, thậm chí “phản thùng”. Nhưng cũng có người cho rằng đây là một thái độ hết sức khách quan, thậm chí rất dũng cảm bình tâm nhận sai lầm vì thiếu chín chắn, nặng về khuyến khích cây bút trẻ, coi nhẹ định hướng của giải thưởng như trong dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Hay nói một cách khác, vì thiếu suy nghĩ kỹ về một tác phẩm của một nhà văn trẻ khi chọn họ vào con đường phục vụ nhân dân, dành tất cả cuộc đời của họ vào đó. Làm văn nghệ không phải dừng lại ở say mê, ham thích, nhiệt tình mà còn đòi hỏi ở đức tài. Năng khiếu chỉ là tiền đề không thể thiếu được mà thôi.
Vì vậy sáng tác văn chương nói nôm na là lao động theo dạng “hành nghề”, nhưng hành nghề như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh thì chỉ làm tổn hại đến xã hội. Còn những người ủng hộ, cho phép và khuyến khích bị “ăn đòn” là phải. Điều may mắn là thứ hàng hóa đó không phải được sản xuất hàng loạt, mặc dù ở trong cơ chế thị trường. Loại “chính phẩm” xuất xưởng nay được đánh giá lại một cách nghiêm túc, thận trọng với trái tim đầy bản lĩnh trí tuệ của những người cầm bút như hai anh. Đây cũng là điều bất ngờ, vì có người bảo một số nhà văn hay tự cao tự đại, bảo thủ, nhưng trong thực tế hiện nay thấy các nhà văn đã cùng suy nghĩ với đông đảo bạn đọc là phải đấu tranh với những sáng tác văn học nghệ thuật tầm thường. Điều đáng quý sau khi đọc loạt bài phỏng vấn của các vị, tôi tìm thấy ở chỗ tiêu biểu cho cái đẹp, cái hay của con người. Các anh thẳng thắn, không giấu giếm, ghi nhớ, nhập thân với tâm hồn rộng mở. Cái đẹp ở thái độ và cử chỉ của các anh là phẩm chất cách mạng, thực sự cầu thị, không tách rời với thực tiễn xã hội ngày nay. Các anh đã quay lại nhìn cái hiện tượng bất bình thường vừa qua. Rõ ràng Nỗi buồn chiến tranh là một sự xúc phạm, một sự thách thức đối với xã hội, đối với lương tri của con người.
Có người bảo quay lại nhìn cái hiện tượng đó để phủ định nó chẳng khác nào “đánh vuốt đuôi” khi sản phẩm đó được bày bán trên thị trường với cái “mác” được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam – sự thật vẫn là sự thật, nhưng phải nói những lời cảnh tỉnh với những người còn mơ hồ về tác hại của nó bởi những ngóc ngách của vấn đề chiến tranh.
Đến bây giờ chắc các nhà sáng tác càng thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân là người thẩm định cuối cùng – họ không phải là kẻ thưởng ngoạn bình thường mà là sự nhận thức bằng trí tuệ.
w Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (18-10-1995)