PHÚ ĐỘC VẬN
Tố Hoài giới thiệu và chú giải
. Nhà thơ Gia Môn Nguyễn Ngọc Tấn (1885-1945) người xã Thanh Trà, tổng Quế Hải (nay là xã Hải Quang, Hải Hậu, Nam Định).
Thuở nhỏ ông, một trong hai người thông minh nổi tiếng trong vùng cả về văn chương thi phú. Tính tình phóng túng, chữ nghĩa khoáng đạt, không muốn ép buộc vào phép tắc cấm kỵ khắt khe vô lý chốn trường thi, nên chỉ đi thi lấy lệ.
. Ông bỏ qua mọi chen lấn chốn quan trường cát bụi hay tước vị phù du. Có thể thế ông chỉ nhận chân Đội trạm Bưu điện, cưỡi ngựa đưa thư, có điều kiện tự do tiêu dao cùng thắng cảnh, thăm thú bạn bè thư kiếm… làm nên QUẾ HẢI thi tập.
. Phú của ông hầu hết độc vận. Những cặp đối ngẫu hoàn chỉnh. Ngôn từ phong khoáng , hào hoa.
Xin giới thiệu một số bài phú độc vận trong QUẾ HẢI thi tập của ông.
. Phần 2
. V Ă N Đ i Ế U
. *
BÂNG KHUÂNG PHÁCH QUẾ
Khóc bá phụ
Cảnh thiên thu sáng láng, bóng Trùng Quang còn soi tỏ non sông.
Sóng bình địa dồi dào, cơ tạo hoá(1) đã xoay vần dâu bể.
Ôi quần điểu(2) là loài lông cánh, lạc đàn giọng oán cũng thương thay!
Huống nhân sinh cùng giọt máu đào, xa cách buồn rầu sao xiết kể!
Nhớ bá phụ xưa:
Nết đất thông minh
Tính trời anh nhuệ(3).
Sông Nhị, núi Nùng(4) đúc lại nên bậc hào hoa.
Vây rồng cánh phượng(5) vin chơi, tinh đường vũ nghệ.
Cung kiếm đánh quân Nguỵ Vũ(6), nam nhi đà phỉ chí tang bồng.
Mộc thang(7) ở đất Hà Quang, Lý trưởng cũng nổi tài kinh tế.
Danh giá vang lừng nơi cố quận, phục thuỷ(8) mong nối nghiệp công, hầu(9),
Cõi bờ rộng mở chốn tân cương(10) lập ấp dẫn một đoàn tử đệ.
Ở đấy đồng không sông quạnh, hoa cỏ chồi xanh,
Làm nên ruộng đỗi ao liền, phong lưu tuổi trẻ.
Chánh tổng hội viên bổ thụ(11) thang mây nhẹ gót bước thanh thơi.
Quân ân thánh trạch gia ban(12), bao cổn(13) nét vàng in đỏ choé.
Mai nở khai hoa mấy độ, anh trước em sau(14),
Tre già măng mọc thêm xuân, cha truyền con kế(15).
Thư thả lúc ngày giời tháng bụt, rõ là sinh phật nhất gia,
Phất phơ trông tóc bạc gia mồi, chẳng khác thần tiên lục địa.
Anh em cháu:
Khuất bóng thông đường(16),
Nương nhờ bá phụ.
Môn, anh em con vui thú điền viên,
Huyền, mới được nhờ ơn phủng bệ(17).
Kể từ lúc gặp cơn gia biến(18) khô héo hình mai,
Thường có khi nghĩ đến tình thâm bâng khuâng phách quế(19)
Những tưởng cha già còn có bác, trong nhà dậy dỗ cháu như con.
Nào ngờ bác lại mải lên tiên, tựa cửa ngậm ngùi con với mẹ.
Nghe tiếng xuy huân(20) năn nỉ thảm, các anh các chị nhỏ hàng châu.
Nhớ câu trắc Hỗ(21) thở than buồn, tiếc bác tiếc cha tuôn giọt lệ.
Hạc Hoa biểu(22) bao giờ lại đỗ, bâng khuâng sáu khắc xót lòng ve,
Long Đỉnh Hồ(23) từ đấy bay đi, rầu rĩ ba thu(24) sầu tiếng dế.
Giang sơn đó lấy ai làm chủ, nhớ bao nhiêu thảm thiết đến can tràng,
Gia đình này nay đã vắng ông, nói ra lắm càng đau trong phủ phế .
Nhờ phép Phật dẫn ông lên cõi hoá, chứa chan dầm mưa pháp mây từ (25)
Đến làng Tiên ông rộng mở đường tu, sớm tối niệm câu kinh tiếng kệ(26).
Thôi phó mặc người đời của thế, công hầu khanh tướng ra vào,
Phù hộ cho con nối cháu dòng, phú quý vinh hoa tử tế.
Văn vải trắng khóc đưa bá phụ, kể sao cho hết được nhời?
Dưới suối vàng có gặp phụ thân(17), xin nói gia đình là thế!
Ngày 2-8-MậuDần,1938
. Gia Môn NGUYỄN NGỌC TẤN
____
1. Cơ tạo hoá: thiên cơ, cơ trời. Cỗ máy nhà trời luôn vận hành.
2. Quần điểu: Đoàn (bầy) chim.
3. Bá phụ: bác ruột. Anh nhuệ: giỏi giang, tinh anh.
4. Sông Nhị:từ chữ Nhĩ thủy đoạn sông Hồng như cái tai bao quanh Hà Nội.. Núi Nùng: Núi Long Đỗ ở Hà Nội. (nay không còn).
5. Vây rồng cánh phượng: chốn quan trường.
6. Nguỵ Vũ: tên thụy Tào Tháo (155 – 220) do con là Tào Phi truy tôn khi lập nhà Ngụy thời Tam Quốc (Ngụy, Thục Ngô).
7. Mộc thang: Nơi đất phong, quan nghỉ tắm rửa trước khi vào cung.
8. Phục thuỷ: khôi phục truyền thống.
9. Công, hầu: 5 tước: Công, hầu, bá, tử, nam..
10. Tân cương: đất mới, tức vùng Quế Hải.
11. Bổ thụ: phân công nhiệm vụ.
12 Quân ân thánh trạch gia ban: ơn vua chọn ban chức tước.
13. Bao cổn: tráp, ống đựng giấy tờ.
14. Em sau: em trai là Chánh tổng Quế Hải.
15. Con kế: con trai là Chánh tổng Quế Hải.
16. Thông đường: nói về cha. Luận Ngữ: “Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã”- Đến mùa lạnh mới biết tùng bách rụng lá sau cùng. Tùng được coi là biểu tượng khí tiết.
17. Phủng bệ: cấp tước. Ông Nguyễn Ngọc Huyền được tước Cửu phẩm.
18. Gia biến: nói cụ thân sinh nhà thơ mất từ năm 1929.
19. Phách quế: (vía). Mơ tới cung trăng.
20. Xuy huân: Kinh thi: “Bá thị xuy huân, trọng thị xuy trì”- Họ Bá thổi kèn, họ Trọng thổi sáo.
21 Kinh Thi: “Trắc bỉ Hỗ hề, chiêm vọng phụ hề”- trèo lên núi Hỗ ngóng về cha ta.
22. Hạc hoa biểu :Hạc quy hoa biểu. Chim hạc về đậu trụ đá mộ. Hoa biểu là trụ đá trên mộ. Theo Đào Tiềm-Sưu Thần hậu ký: Tương truyền Đinh Lệnh Uy người Liêu Đông, tu tiên ở núi Linh Hư. Một lần ông hóa chim Hạc về đậu ở trụ đá trên mộ mình bị một mục đồng giương cung toan bắn. Ông đã nói, đừng bắn hạc, ta là Đinh Lệnh Uy xa nghìn năm trở về thăm quê. Làng quê xa lạ khác đi nhiều quá mà dân đâu hết. Sao chẳng học tiên mà bãi mộ đi.
23. Long Đỉnh Hồ: Tương truyền Vua Hoàng Đế đúc cái đỉnh ở núi Kinh Sơn. Xong, ông cỡi rồng lên cõi tiên. Đời sau gọi nơi đó là Đỉnh Hồ.Hồ là sườn núi lớn. Long đỉnh hồ chỉ đã lên cõi tiên hay chỉ việc người chết.
24. Kinh Thi –bài Thái Cát: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề” -Một ngày không gặp nhau, dài tựa ba thu vậy.
25. Mưa pháp mây từ: Kinh Pháp Hoa: Sư Thích Tôn giảng kinh, trời mưa xuống 4 loại hoa, gọi Vũ hoa thụy. Một trong 6 điềm lành nhà Phật.
26. Kệ: một thể văn trong kinh Phật.
TRẬN GIÓ VÀNG HI HÚT
Hàng tổng kính viếng cụ Bá Ru
Sao lão nhân(1) đang sáng, mấy tầng mây trắng phất phơ che,
Tiết Thu dạ(2) vừa êm, một trận gió vàng hi hút thổi.
Vẫn biết cuộc đời chán ngắt, sống gửi thác về,
Hay đâu con tạo vần xoay, dâu chìm bể nổi(3).
Nhớ cụ xưa:
Nết đất hiền hoà,
Tinh thần thông thái.
Dòng dõi tướng công lệnh tộc(4), ở ấp Hà Quang
Đề huề đệ, điệt, dân đinh(5) ra miền Quế Hải.
Mở mang bờ cõi, dựng lên có xã có dân,
Dậy bảo con em, ngăn nắp nên cương nên giới.
Dứng giả làm chùa xây miếu, mấy lớp khánh thành,
Sửa sang tô tượng đúc chuông, nghìn năm hương khói.
Làm quan trong tổng, thị đồng nhân, dân(6) cũng như con,
Tiên chỉ trong làng quyền cai trị trên yêu kẻ dưới.
Nhớ đến những thời loạn lạc nhà ngõ vui tiếng sắt tiếng đàn(7)
Nhờ ơn một cảnh thái bình, dân sự cũng yên chăn yên gối.
Tấm lòng tốt trời nào có phụ, công đức khen lao,
Lúc tuổi già dân dám quên đâu, đêm ngày mong mỏi.
Vườn cụ có lan tươi quế tốt, hoa quả thức thức sẵn bày,
Cảnh cụ sinh lá ngọc cành vàng, con cháu đời đời nối dõi.
Những ước trăm năm có lẻ, trà sen rượu cúc mãi còn vui,
Nào ngờ mới tám mươi ba, gối đá màn mây đâu đã vội.
Cầu ly biệt leo rồi không trở lại, hình mai bóng hạc đã xa chơi,
Cửa âm dương(8) từ đấy cách đây rồi, cảnh Phật, làng tiên lên thẳng lối.
Nay chúng tôi nhớ cụ lắm, tiếc cụ lắm: Tửu nhất hiến(9) tỏ lòng lễ rã(10), anh linh phảng phất xét tình cho,
Vậy chúng tôi khóc cụ đây, điếu cụ đây: Nhạc bát âm cất giọng ai tai, lân lý bồi hồi sao xiết nỗi.
Một nén hương thơm lửa cháy, khấn buổi ba thu,
Mấy câu nghĩa nặng ơn sâu, đưa nơi chín suối!
Ngày 2-8-Mậu Dần, 1938
. Gia Môn NGUYỄN NGỌC TẤN
______
1. Sao lão nhân: Chiêm tinh quan niệm mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh.
2. Thu dạ: đêm mùa thu.
3. Dâu chìm bể nổi: Thần tiên truyện đời Đông Hán, một lần bà Ma Cô nói với Vương Phương Bình: Từ khi đắc đạo đến giờ đã thấy ba lần biển xanh thành nương dâu.
4. Tướng công lệnh tộc: dòng dõi công thần triều đình.
5. Đệ: em. Điệt: con của anh, của em. Dân đinh: người dân làng.
6. Thị đồng nhân: “Nhất thị đồng nhân”– Thơ Hàn Dũ, mọi người bình đẳng.
7. Sắt: loại đàn 50 dây do Bào Hy chế. Tiếng sắt tiếng đàn: ý nói hoà hợp cùng nhau lúc hoạn nạn.
8. Cửa âm dương: Kinh Dịch, thuyết nhị nguyên nói hai sức mạnh chủ động và thụ động âm dương trong sự phân đôi hiện ra như trời và đất, liên kết nhau cụ thể trong con người. Sự chết là sự phân đôi. Cõi sống (dương) sang cõi chết (âm) phải qua cửa.
9. Tửu nhất hiến: dâng một chén rượu chia ly.
10. Lễ rã: thành kính.
CHỒI LINH THÔNG TUYẾT ĐIỂM
Thúc phụ của tác giả
Bạch câu(1) chẳng dừng chân đứng lại, cửa nam song một phút thoáng qua rồi.
Hoàng hạc đâu vỗ cánh cao bay(2), trong hoàn hải bao giờ trông thấy đó?
Nay nhân lúc Xuân thiên mát mẻ, nhờ ơn pháp vũ(3) đã dồi dào,
Tưởng đến khi Đông dạ bồi hồi, một trận hàn phong mà ủ rũ!
Nhớ cha xưa:
Nết đất tinh thần
Tư giời tuấn tú.
Rờ rỡ vốn dòng công tộc(4), bước vinh hoa mong có đỉnh chung(5) xưa,
Đường đường ra đấng anh hào, nền kế thuật(6) in theo nề nếp cũ.
Thuộc nhẵn năm xe kinh, sử, chuyện nói không chiêng không trống(7), khách giang hồ nghe thấy cũng tri âm.
Nặng nề đôi gánh quân, thân(8), cân lên bằng ngọc bằng vàng, bạn thư kiếm(9) qua chơi đều quyến cố.
Cũng tưởng võng đào gươm bạc, rõ ràng tô điểm phấn son vua,
Bõ khi tuổi trẻ đầu xanh, ăn mặc nặng dầy cơm áo chúa.
Nghĩ đến trong vòng cương toả, đa mang bận bịt có ra gì?
Thôi thì chả tưởng tướng khanh, đủng đỉnh an nhàn là rất thú.
Vậy vui chốn non xanh nước biếc, Hải Nham toan mở rộng đồn điền,
Lại thích màu sen trắng hoa thơm, Hải Hậu để làm nơi cảnh thổ.
Dựng dã trong làng trong tổng, sửa sang thái miếu(10) rõ nguy nga,
Lo toan mấy họ mấy hàng, xây đắp gia từ còn sáng tỏ.
Lan vương giả ngạt ngào trong lão phố, năm chồi đương tươi tốt màu xanh(11),
Quế yên sơn phất phới cảnh Tây viên, ba ngọn cũng rườm rà sắc đỏ(12).
Trên thế giới vo tròn cảnh Phật, con đi tu(13) thời cha cũng là tu,
Vườn hàn lâm(14) vin hái cành tiên, trước chưa có phận sau thời đã có.
Những ước trăm năm còn mãi, tấm thân già nương tựa bóng từ bi,
Nào ngờ một phút như không, để lũ trẻ ngậm ngùi cơn đán mộ(15).
Rầu rĩ nhẽ mùa Đông năm ngoái, có Xương, Hoàn nâng giấc lúc lâm chung,
Chua xót thay tháng một bấy giờ, con Long hãy u sầu nơi cảnh ngộ(16).
Cây muốn lặng gió đâu hây hẩy thổi, chồi linh thông nên tuyết điểm sương che(17),
Con muốn nuôi cha đã vội vàng đi, vườn lan quế để hoa sầu hương ủ.
Nhớ mẹ lúc thiên thu vĩnh quyết(18), gươm ái ân ai cắt chữ phù sinh(19,
Tưởng cha khi nhất đán phi thường, cầu ly biệt đã xoay vần kim cổ.
Ngày vòi vọi thấy chim oanh hót thảm, động can tràng đau đớn khúc tình thâm.
Đêm to vo nghe tiếng dế kêu sầu, tưởng dong mạo ngậm ngui cơn huấn hỗ(20).
Ối thương ôi:
Hồng Lĩnh mây che,
Hoàng Hà sóng vỗ.
Long đỉnh hồ từ đấy bay đi,
Hạc hoa biểu bao giờ lại đỗ?
Tình đã thế cảnh đâu lại thế? Tam Xuân khôn giả nghĩa cù lao(21)!
Nói càng đau, khóc lại càng đau! Thốn thảo(22) dám đâu mà báo bổ?
Nhờ phép Phật rộng đường tế độ, rước cha về đến cõi non tiên.
Giương buồm từ thẳng bến trầm luân, đưa cha tới qua miền bể khổ.
Nghĩ cha sắp bảy mươi đầu bạc, chưa đầy trăm tuổi, tiếc thương, thương tiếc biết bao chừng.
Dù ai ba mươi sáu tàn vàng(23), thôi cũng một lần, than khóc, khóc than đành bởi số.
Nay con cháu sắp hàng đứng tế, mũ rơm gậy trúc ngả nghiêng buồn.
Mà rể dâu theo lễ khấu đầu, lửa cháy hương thơm soi sáng tỏ.
Ống ngọc luật(24) thổi cung sầu ríu rít, khí tinh linh phảng phất giữa lam hồng.
Khúc nam ai(25) tuôn hàng lệ chứa chan, tình cốt nhục âm thầm trong phế phủ!
Ngày 17-11-Đinh Sửu, 1937
. Gia Môn NGUYỄN NGỌC TẤN
________
1. Bạch câu: Trang Tử “Nhân sinh nhất thế gian, như bạch câu quá khích”- Đời người như vó ngựa chạy qua khe cửa. Câu: ngựa non, Khích: khe. Nam song: cửa sổ hướng nam ứng phương ngọ, vào giờ ngọ.
2. Tương truyền Phí Văn Phí tu tiên thường cỡi hạc vàng về đất Vũ Xương, Hồ Bắc. Đời sau dựng lầu Hoàng Hạc tưởng nhớ và Thôi Hạo (?-754) có bài thơ Hoàng Hạc lâu nổi tiếng..
3. Pháp vũ: xem chú giải bài Bâng khuâng phách quế.
4. Công tộc: công thần vọng tộc, dòng dõi quan lại triều đình.
5. Hán ngữ “Liệt đỉnh nhi thực, thực thời kích chung”- Khi ăn bày vạc, lúc ăn báo chuông.
6. Kế thuật: kế chí và thuật sự. Sách Trung Dung “Phù hiếu giả thiên kế nhân chi chí, thiện thuật nhân chi sư giả dã”- Gọi tắt “kế chí” tiếp tục người đi trước và “thuật sự” noi theo công việc người đi trước.
7. Năm xe kinh sử: Khổng Tử “Yếu tri thiên hạ sự, tu độc ngũ xa thư”- Muốn biết việc thiên hạ phải đọc 5 xe sách. Trang Tử thư “Huệ Thi đa phương kỳ thư ngũ xa”- Huệ Thi có nhiều phương kế, sách của ông chứa đầy 5 xe. Cụ Hàn Liễn cũng thuộc làu kinh sử và có tài nói chuyện thuyết phục lòng người.
8. Đôi gánh quân, thân: việc nước việc nhà.
9. Bạn thư, kiếm: người hiểu biết (văn, võ).
10. Thái miếu: Miếu thờ các tiên liệt. Cụ Hàn Liễn là đốc công chính xây thái miếu Đông Hải Long vương.
11. Lan vương giả…. năm chồi đang tươi tốt màu xanh: năm con gái đang độ trưởng thành như hoa cỏ lan thơm nức trong vườn nhà.
12. Quế Yên Sơn… ba ngọn: Ba con trai như cây quế đất Yên Sơn. Tây viên: Vườn Tây Uyển, trồng cây cảnh quý, do Tuỳ Dạng đế lập phía tây kinh đô Lạc Dương để vui chơi với cung phi.
13. Con đi tu: Con trai trưởng của cụ Hàn tu hành.
14. Hàn lâm: tước Hàn lâm điển bạ (tòng bát phẩm, cao hơn cửu phẩm).
15. Cơn đán mộ: bỗng chốc xảy ra hoạn nạn.
16. Nơi cảnh ngộ: Ông Long đang gặp nạn.
17. Tuyết điểm sương che: cảnh lâm chung.
18. Vĩnh quyết: vĩnh biệt.
19. Phù sinh: sống cõi trần gian.
20. Huấn hỗ: ngành Hán học giải thích chi li từng chữ. Lời dạy cặn kẽ.
21. Cù lao: Cổ thư “Ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao….Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phúc ngã, xuất nhập phục ngã. Dục báo chi đức, hạo nhiên võng cực”- Xót thương cha mẹ sinh ra ta khó nhọc…cha sinh ta, mẹ nâng ta từ trong bụng, ấp iu nuôi nấng, bú mớm, bồi bổ trưởng thành, dạy điều khôn lẽ phải, lo lắng từng bước đi, khuyên răn, che chở. Báo đền ơn đức ấy như trời rộng không giới hạn
22. Thốn thảo: tấc cỏ. Mạnh Giao (751-815) tự Trung Dã, người Hồ Châu, Triết Giang, nhà thơ đời trung Đường viết trong Du Tử ngâm “Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy”. Trần Trọng Kim dịch: Chút lòng tấc cỏ dễ đâu, Bóng ba xuân đáp ơn sâu cho vừa.
23. 36 tàn vàng ý nói hiển hách như vua.
24. Ống ngọc luật: Nhạc cụ như sáo, tiêu, kèn…
25. Khúc nam ai: tên một giai điệu nhạc buồn.
KHÔNG NGẠI GIÓ MƯA
Văn điếu ông Vũ Câu
Than ôi!
Cây lặng gió rung,
Sao rời vật đổi.
Hồn kim cổ(1) lại đi, đi lại, ai khêu nên khói thảm hương sầu?
Mảnh hình hài không có, có không, con đau đến buồng gan lá phổi.
Kể từ trước vốn dòng lịnh tộc(2), nước phương giang(3) tắm gội từng ngày,
Lúc thanh nhàn vui thú điền viên(4), không ngại bước gió mưa lặn lội.
Cửa nhà vui vẻ, tiếng thuần lương(5) thơm nức chốn hương lân(6),
Con cháu hẳn hoi, chữ hiếu hữu đồn ran trong xã hội.
Vườn hoè quế trăm hoa đương tốt, năm canh sáu khắc khai nhan.
Tuổi xuân thu tám chục vừa tròn, cõi thọ đền xuân mong mỏi. Những ước thông đường bạch phát(7), thẻ kỳ di(8) khoe tóc bạc da mồi,
Nào ngờ nhất mộng hoàng lương(9), màn nhu mộ(10) để chăn sầu gối tủi.
Sao cha chẳng ở năm, mười năm nữa? Để chúng con ấp lạnh quạt nồng(11).
Đương khi này tháng Tám đêm Thu, mà cha đã sương dầm tuyết gội!
Hay thấy mưa Âu, gió Á, mênh mông bể tục chẳng ra gì?
Hay mê gối đá màn mây, bơ bải nàng tiên mà bước vội?
Xuân tấp cỏ(12) con chưa báo đáp, đức cù lao luống những ngậm ngùi,
Đương khi này trời thấu cho chăng, cơn khống tống(13) càng thêm bối rối.
Ối thương ôi,
Sự đời chìm nổi!
Mây quanh quất mịt mù núi Hỗ, bóng hạc tuyệt vời,
Gió tả tơi héo hắt cành thông, thẻ rùa khôn bói.
Cha đã về kiếp ấy thôi rồi,
Con thương xót biết đâu mà hỏi?
Xót nhẽ mẹ già vò võ, đêm bâng khuâng thở ngắn, than dài,
Thương thay thân lão chơ vơ, ngày đằng đẵng chiều trưa, ban tối.
Nghĩ lại, chết mỗi người một chứng, khéo tu khéo hoá, trần phiền chi đến cháu con đâu,
Trông ra ngoài một nước một trời(14), tế táng sao đây trời đất hỡi?
Gái trai dâu rể, thảm thiết trăm chiều
Cháu chắt họ hàng trước sau một lối.
Theo đòi tục lệ:
Trẻ làm ma, già làm hội, nghĩa ba thu dọn lại một ngày,
Giàu làm kép, hẹp làm đơn, sầu chín khúc(15) buông ra trăm mối.
Gậy trúc bày hàng ra đứng tế, ô hô rồi ngâm khúc bi ai,
Xe mây(16) đủng đỉnh sắp đi đưa, khóc lóc vẫn ghi lời huấn hối(17)
Văn mấy chữ: tình dài, giấy vắn
Tế vài tuần: đĩa muối lưng canh
Đưa nơi chín suối!
. Gia Môn NGUYỄN NGỌC TẤN
_______
1. Hồn kim cổ: hồn giữa sự sống và cái chết
2. Lịnh tộc: cha, ông có chức sắc trong làng.
3. Nước phương giang: nước sông quý, ý nói nghề kéo lưới cá.
4. Điền viên: ruộng vườn.
5. Thuần lương: thuần hậu và lương thiện, ngay thẳng, hiền lành.
6. Hương lân: làng xóm
7. Thông đường bạch phát: cha tới khi bạc tóc.
8. Thẻ kỳ di: thẻ bói. Kỳ di: kỳ di lão mạo, sách xem tuổi thọ.
9. Nhất mộng hoàng lương: Giấc mộng kê vàng.
10. Nhu: dẫm đạp. Mộ: nơi chôn cất.
11. Ấp lạnh, quạt nồng: “đông ôn hạ sảnh”. Khi lạnh thì đắp ấm, khi nồng nực thì quạt mát.
12. Xuân tấp cỏ: mùa xuân nuôi cỏ. Xuân: cha mẹ, cỏ ví như con.
13. Cơn khống tống: khóc đưa ma.
14. Một nước một trời: chỉ có màn nước và bầu trời. Cụ Vũ Câu chết lúc đang lụt ngập.
15. Chín khúc: do từ cửu hồi trường, chín khúc ruột.
16. Xe mây:Vân xa. Bác vật chí ghi:“ Hán Vũ đế hiếu đạo, thất nguyệt, thất nhật dạ lậu thất khắc. Tây Vương Mẫu thừa tử vân xa lai.”- Hán Vũ đế mộ đạo. Đêm mồng 7 tháng 7, đồng hồ điểm 7 tiếng, Tây Vương Mẫu cỡi xe mây tới thăm Ở đây là xe tang.
17. Huấn hối: lời dặn cuối cùng, trăn trối.
GIỮA BUỔI TAM ĐÔNG
Họ Nguyễn tế bà cựu Cảnh *
Vầng dạ nguyệt(2) lờ mờ gác núi, trông ngôi Bảo Vụ(3) đã dời rồi.
Trận đông phong giật dã rung cây, đương lúc thu thiên mà ngán quá.
Đời người giấc mộng, cõi vân hoàn đau đớn kiếp phù sinh.
Cuộc thế bể dâu, nơi trần hải gớm ghê con tạo hoá.
Nhớ bà cựu xưa:
Nết đất kiệm cần,
Tư trời nhuần nhã.
Quý tướng hào môn(4) tự thuở ống huân trì(5) giọng thổi càng hay.
Phụng thờ tiên tổ từ xưa, rau tần tảo(6) lòng thành cũng khá.
Trong họ kể dâu hiền là đệ nhất, bậc bố kinh(7) tươm tất đáng nghìn vàng,
Nhờ trời sinh quý tự(8) lại càng nhiều, chồi lan quế tốt tươi ba, bảy đoá.
Việc làng việc nước giang sơn gánh vác đỡ đần ông,
Khi giỗ khi đơm, tôn tộc khen lao vui vẻ cả.
Tấm lòng tốt hoàng thiên không phụ, người phong lưu thêm mấy chữ vinh hoa.
Tấc dạ thành tiên tổ ban cho, nhà phú quý nổi một miền danh giá.
Lúc xây sửa từ đường tổ miếu, đề khuyến văn cúng bội số nguyên ngân(9),
Ông bà là con hiếu dâu hiền, dòng tính tự(10) khắc không mòn bia đá.
Những ước cùng ông vui tuế nguyệt(11), chữ trăm năm đề dưới niên hoa(12),
Nào ngờ bà xa cách non sông, bỗng một sớm nên câu mãn quả(13).
Nay chúng tôi:
Cùng giọt máu đào,
Hơn ao nước lã.
Tửu nhất hiến viếng rồi lại khóc, buổi tam đông(14), thương tiếc luống bồi hồi,
Văn mấy vần đọc nghĩ mà đau, xe thiên cổ sắp đưa càng bận bã.
Hồn phảng phất ở trên mây tía, phù hộ ông hai chữ thọ tràng,
Khí tinh linh yên dưới suối vàng, cầu cho họ nghìn năm hương hoả!
Gia Môn NGUYỄN NGỌC TẤN
_______
1. Ông Cựu Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh), chủ khẩn hoang vùng biển bồi giáp đê 50, quen gọi là Cánh đồng Cựu Cảnh, nay thuộc xã Hải Đông, Hải Hậu.
2. Vầng dạ nguyệt: Vầng trăng đêm.
3. Bảo Vụ: Ngôi sao Vụ Nữ, chỉ mẹ.
4. Quý tướng hào môn: Người danh giá, nhà có học có hạnh.
5. Ống huân trì: anh em tình nghĩa hòa thuận. Huân: kèn đất nung có 5 lỗ. Trì: sáo thân trúc có 8 lỗ.
6. Tần tảo: Thơ Thái Tần “Vu dĩ Thái Tần nam gián chi tân, Vu bỉ Thái Tảo vu bỉ hàng lạo”– Hái rau tần bên bờ khe phía nam, hái rau tảo bên lạch nước. Siêng năng cần kiệm, chỉ người vợ hiền dâu thảo.
7. Bố kinh: người vợ nết na. Từ tích “bố quần kinh thoa”. Hậu Hán thư: Con gái nhà họ Mạnh, người khoẻ mạnh, chăm chỉ thường mặc áo quần vải thô (bố), cài tóc bằng gai (kinh), lại kén người chồng khí tiết, hiền lành. Lương Hồng là người như vậy. Nhà nghèo học rộng và cũng từ chối lấy vợ nhà giàu. Họ lấy nhau, luôn luôn gìn giữ một đời sống kiệm cần tằn tiện. Mạnh nhi rất chung thuỷ và rất kính trọng Lương quân.
8. Quý tự: con trai.
9. Bội số nguyên ngân: Số tiền lớn lúc ban đầu.
10. Tính tự: Con của dòng họ. Bà Cựu Cảnh là con dâu họ Nguyễn Phúc
11. Tuế nguyệt: tuổi trăng, tuổi già.
12. Niên hoa: tuổi hoa, tuổi xuân. Ý câu nhắc ngày nạp thái vu quy.
13. Mãn quả: qua đời.
14. Buổi tam đông: một ngày đau lạnh như thể ba mùa đông,