. VÁI NÉT VỀ TÁC GIẢ LƯƠNG Y NGUYỄN SỸ TẤN
. Tố Hoài
. Giảng viên Trường Đại học Y
. Cụ Lương Y Nguyễn Sĩ Tấn (1904-1982) sinh tại làng Quỳnh Phương, xã Hải Phú, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Là lương y vừa chuyên sâu y lý, cụ còn là nhà thơ.
. Bút lực của nhà thơ thật khỏe khoắn khi đi vào lĩnh vực Hán học. Ngôn từ trong thơ phong phú và đầy ắp sự lãng mạn, tung hoành với thể biền ngẫu.Trong bài điếu một nhà Đông Y bạn hữu tạ thế, nhà thơ đã xử dụng trên dưới năm chục tên vị thuốc đồng nghĩa và dị nghĩa để biểu đạt hồn thơ mà hành ngôn thật trong sáng:
Trước nghiên cứu hoàng kỳ học thuật, để biết điều phòng kỷ, tế sinh.
Sớm theo đòi Khổng thánh chẩm trung, mong hiểu đạo quy thân, bại độc.
Những danh từ Đông Y nhuần nhuyễn được nhấn nhá, dồn nén đầy ngữ nghĩa gợi mở góc cạnh, đa chiều:
Chí khoa trường toan như Tô tử, suy ra chẳng hợp thời cơ,
Thú giang hồ muốn học Đào nhân tỉnh lại chưa yên thế cục.
Tô Tử và Đào nhân hai vị thuốc. Cũng có thể hiểu là tên hai người nổi tiếng, Nhà thơ Tiến sĩ Tô Đông Pha đời Tống và Tể tướng Phạm Lãi công thành thân thoái với người đẹp Thi Di Quang thời Việt vương Câu Tiễn trên sông nước Ngũ Hồ.
Cứ như thế, trong thơ dịch, ( lời Hiệu triệu các cụ phụ lão toàn quốc) dịch giả đã cân nhắc khi xử dụng ngôn từ, thận trọng trong ngữ nghĩa, kỹ càng trong câu chữ và xúc tích trong hành ngôn. Không những sao cho sát với thần thái nội dung mà còn giàu tính văn chương trong truyền cảm, biền ngẫu mà sáng trong.
Giới thiệu bài bài dịch:
LỜI KÊU GỌI PHỤ LÃO CẢ NƯỚC
Dịch giả: Lão y Nguyễn Sĩ Tấn
(Bản dịch năm 1949)
Lòng căm chúa Trụ(1), xe Thái công(2) nội mục tung hoành,
Thề đuổi giặc Hồ(3), thuyền Tổ Địch(4), sông Trường(5) vùng vẫy.
Một cơn giận mà yên dân, người thao lược phải nên cố gắng.
Bốn phương trời còn nhiều giặc, người anh hùng không lẽ ngồi trông?
Vì vậy mà:
Tuổi tám chục còn nhanh như chim cắt, quên cả tuổi già,Thân học trò mà xông trước mũi tên, quản chi thân mọn.
Những chuyện ấy không những đã hiển hách ở ngàn xưa,
Mà vẫn còn thơm cho đến muôn thuở vậy!
Nước Việt Nam ta, vốn dòng cường tộc:
Phá quân Hán, đuổi quân Tống, quốc thế vững vàng
Bình giặc Nguyên, diệt giặc Thanh, võ công lừng lẫy.
Từ lúc Tây Sơn(6) thua thảm hại, lửa chuyên chế càng nồng,
Tới khi giặc Pháp lấn ngông cuồng(7), nọc thực dân càng mạnh.
Sưu cao thuế nặng, hút người mình trơ bộ xương da
Lại dữ, quan tham ép dân ta làm thân trâu ngựa.
Mối lợi nhà băng đường sắt chiếm hết độc quyền,
Những nơi bể bạc rừng vàng cướp làm tư sản.
Phá núi trồng cao su, xương bọn phu phen chồng ngất núi
Đào hang khai mỏ quặng, thây người già yếu chất đầy hang.
Chế hóa rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân,
Khai trương nhà thổ, bạc sòng để suy đồi phong hóa.
Ngục Sài Gòn, Hà Nội người đeo xiềng xích đến hàng muôn.
Tù Côn Đảo, Sơn La kẻ chết suối rừng lên đến ức.
Khủng bố ở Nam Kỳ, mấy ngàn nhân sĩ, chật ních nhà lao.
Trưng thu ở Bắc Bộ, hai triệu sinh linh biến thành ma đói(8).
Ôi! Nhân dân ta, Tổ Quốc ta tưởng không thời gian nào, nhục nhã lầm than hơn thời gian ấy vậy,
Nhưng ép càng nặng, chống lại càng mạnh, là lẽ tất nhiên
Chết mong sống, mất đi mong còn là thế nhất định.
Cho nên từ cụ Phan Đình Phùng(9) đi trước, hiên ngang xông lưỡi mác phục thù,
Tới ông Nguyễn Thái Học(10) tiến sau, anh dũng phất ngọn cờ kháng chiến.
Dòng quật cường truyền thống tự ngàn xưa,
Cuộc cách mang nổ tung ra tháng Tám.
Khẩu hiệu giải phóng, cả nước hô vang,
Chính quyền nhân dân, một tuần ổn định.
Rực rỡ sao vàng cờ đỏ, xiềng đế quốc phá tan,
Bạt ngàn núi Tản sông Long(11), nền cộng hòa xây vững
Lúc ấy, tục tham ô chấm dứt, đường quận châu hết súng sài lang.
Nguồn sinh hoạt dồi dào, nhà thôn xóm vui vầy hồng nhạn.
Đường mở mang kiến thiết
Để xây dựng phú cường.
Căm giận thay giặc Pháp ngông cuồng,
Sai trái hẳn Tây Dương hiến ước(12).
Tuy núi xương sông máu, vết thương tàn bại chửa hàn xong,
Mà dạ thú lòng lang, giấc mộng viễn xâm còn tưởng hão.
Ruồi bâu đuôi ngựa, thừa Nhật thua, vào vịnh Hải Loan(13)
Cáo mượn oai hùm, nhờ Anh giúp quấy miền Nam Bộ(14).
Chính phủ Hồ Chí Minh vĩ đại
Vừa giúp cho dân ta thoát khỏi vòng nô lệ
Không muốn để nước ta lại thành bãi chiến trường.
Nghĩ rằng, thế nước rối ren, phải hòa bình giải quyết,
Đối với quân thù yêu sách nên uyển chuyển điều đình,
Hội minh ở Hà Nội, vừa lập thành hiệp định tháng Ba(15)
Giao thiệp ở Phông-ten(16) lại bổ sung tạm ước tháng Chín.
Lập trường của ta nhất định đòi độc lập, thống nhất,
Dã tâm của địch tuyệt đối không tín nghĩa, nhân tình.
Nét bút hòa thân chưa ráo mực,
Đội quân phản bội đã hành hung.
Quấy rối ở Hải Phòng, Lạng Sơn ta còn nhẫn nhịn,
Làm càn ở Hà Nội, Hàng Bún giặc cố ngông cuồng.
Hùm đánh nhau hai tháng, ta theo trường kỳ chiến lược, rút toàn quân ra khỏi đô thành,
Lợn xông cũi ba tuần, giặc toan tốc chiến thành công, dồn đại đội xông ra trận địa.
Chiến trường mở rộng,
Tội ác rõ ràng.
Đốt chùa Phật, bắn nhà thờ không còn kiêng sợ.
Nướng trẻ con, mổ bà chửa làm thú vui chơi.
Người buôn bán chợ chiều oan uổng bị máy bay bắn quét,
Kẻ làm ăn điền dã, tội tình khi pháo giặc nổ tung.
Đốt nhà giết người, hãm dâm phụ nữ, đi đến đâu trời đất thảm thương,
Khoét mắt cắt vú, rạch mổ tim gan, làm những việc chim muông độc ác.
Ôi, chặt tre núi Nam Sơn(17), khơi nước bể Đông Hải cũng không chép hết tội và rửa hết lỗi của bọn thực dân, phản động vậy.
Nhưng mặc dầu giặc gây hung ác, không tài nào khuất phục nổi ta.
Chỉ gây cho dân quá căm thù cùng trỗi dậy kiên cường giết giặc.
Vậy nên pháo giặc đến đâu, ngọn lửa đồng cừu(18) vây hãm pháo
Đồn thù tại chỗ tiếng loa sát địch thét vang đồn.
Chiến sĩ anh dũng đua ôm đạn để diệt xe tăng
Tuổi trẻ kiên cường vui hiến thân để đốt kho thuốc.
Phụ nữ quê mùa quyết cầm dao đâm giặc,
Thiếu nhi chất phác tranh ném đạn diệt thù.
Không phân đảng, không phân phái, không phân chủng tộc tôn giáo, toàn dân chung cứu nước một lòng,
Đi từ Nam, đi từ Bắc, đi từ bể bạc rừng xanh muôn nẻo nhắm diệt thù một đích.
Dân cả nước kết thành một khối, vững vàng hơn hòn núi Thái Sơn(19),
Trăm vạn quân rải khắp ba kỳ, dầy đặc quá tấm chài ngư phủ.
Sẵn sàng bộ đội chính quy lòng lim dạ sắt,
Phối hợp dân quân du kích chước thánh mưu thần.
Ta vườn không nhà trống, giặc khó mong vơ vét tiền lương.
Ta rỡ cầu phá đường, giặc không thể tung hoành cơ giới.
Từ ngày kháng chiến ngắn dài đã trải ba năm,
Cả nước giao tranh, lớn nhỏ đến vài muôn trận.
Quân giặc tiếp thu không đủ phần tổn thất,
Quân ta thắng lợi luôn vượt mức yêu cầu.
Ta thắng ở Đoan Hùng, dòng nước Lô Giang tanh máu giặc,
Giặc thua ở xứ Lạng, rừng lau Lô Động chật thây thù.
Triệt công ở Sài Gòn, sáu chục cỗ xe tan như cám vụn,
Phục kích ở Cần Thơ, hai trăm xác giặc hóa tựa bùn lấy.
Xe rhù vận chuyển tổn thương vì địa pháo nổ tung,
Đồn giặc linh tinh hầu hết bị cơ binh diệt gọn.
Giặc nhảy dù ở Việt Bắc, hoảng sợ thất thần,
Giặc sa lầy ở Tháp Mười cuống cuồng thục mang.
Phương diện võ lực chúng không đạt yêu cầu
Chính trị âm mưu kíp tung ra hoạt động.
Chính phủ ngụy Văn Xuân chiêu bài bán nước(20),
Điều đình suông Vĩnh Thụy(21), quảng cáo bảo hoàng.
Chúng muốn gây bè dựng đảng để chia rẽ đồng bào
Tìm vết đặt điều để cản lòng kháng chiến.
Rồi gây ra nội chiến để xáo thịt nồi da.
Xúi giục đảng tranh để luộc nhân dây đậu,
Đó là âm mưu thâm độc nhất của giặc vậy.
Nhưng Tường Tam gian hoạt, Hồng Khanh là bọn côn quang,
Hải Thần già lẫn, Văn Hoạch kém tài chính trị.
Vả những kẻ tay không, chân mượn, chỉ duy cúi cổ nghe theo(22),
Mà thế gian độc lập tự do, đâu phải ngửa tay xin được.
Gần đây chính phủ bù nhìn mới lên sân khấu,
Bè lũ ma lanh đã diễn trò hề.
Độc lập mà địa phương phân trị, trung ương không chủ quyền, nước không ra nước,
Kháng chiến mà quân đội nước ngoài, ngoại giao cấp lãnh sự, nô lại hoàn nô.
Vậy thì nội các Văn Xuân là cửa hàng bán nước,
Hạ Long điều ước là trò bịp dối dân.
Dấu tích rõ ràng,
Ai ai cũng biết.
Cho nên bọn quạ khoang càng lên tiếng, dân ta đoàn kết càng cao,
Lũ cáo già càng bày mưu, nước ta đấu tranh càng mạnh.
Khi lãnh tụ trò hề vừa điểm tô trang trí, núp ở đài sau,
Mà nhân dân cả nước đã thét mắng âm vang như cơn mưa dữ.
Bọn Việt gian phù giặc, bám giặc đã bị vạch trần,
Mưu cường đạo dùng ta đánh ta, khôn hòng thi thố.
Nói về thế giặc, tiến đồ thất bại chẳng còn nghi,
Nhìn lại phía ta, thắng lợi cuối cùng nhất định.
Nhưng tình hình hiện nay:
Khóc ở Tân Đình, không thể cứu nguy nhà Tấn(23).
Bàn thêm rừng trúc lại thêm gieo vạ giặc Hồ(24).
Chư ông đã thừa rõ vậy,
Nay mong chư ông:
Yêu nước quên mình, trên sẻ mối lo cho chính phủ,
Dốc lòng vì nước, dưới làm tiêu chuẩn cho hậu sinh.
Vì sau ngày cách mạng, phụ trách huyện châu, quá nửa là nhân viên hậu tiến,
Trong thời kháng chiến, phân công thôn xã, tối đa là tầng lớp thanh niên.
Trong khi bàn luận, phần khách khí quá hăng,
Nhưng lúc thi hành, niềm cấp công rất quý.
Nếu hiềm nghi xa lánh, khó thấy bản năng,
Bằng gần gũi tương thân, mới dành thực chất.
Cúi xuống để dẫn lên,
Nối ngắn để kéo dài.
Tổ quốc đương mong chờ ở chư ông vậy.
Giặc còn giữ trung châu thị trấn, bộ chủ yếu vẫn còn,
Ta muốn rút kháng chiến thì gian, sức chiến đấu phải mạnh.
Vì vậy trước đã đoàn kết, nay đoàn kết hơn nữa, chính phủ vẫn hô hào.
Trước đã hy sinh, nay hy sinh mạnh thêm, nhân dân nên tích cực.
Hỡi các quý vị:
Là thân hào, là nhân sĩ, là giai cấp phụ huynh,
Phần lịch duyệt, phần đức tài, phần mô phạm tiêu biểu.
Lòng thiết tha yêu nước chẳng chịu kém thua
Chí hăng hái diệt thù có nhiều ưu Việt.
Nhưng lo toan việc lớn không thể nói suông,
Mà quyết định mưu cao phải làm hiện thực.
Hiện nay:
Chính phủ các bộ đương tha thiết cầu hiền,
Cao cấp cơ quan cũng ân cần nạp sĩ.
Tứ bậc cao siêu bái vọng đã rất tôn sùng,
Đến người chút ít tài năng, cũng đều cử dụng.
Dùng để quyết mưu quân, bàn việc nước, tin ở bậc lão thành,
Chống giặc ngoài, ôn việc trong, nhờ vào người minh triết.
Tiến lên, góp tài góp sức, giúp nước nhà qua bước gian nan,
Lập kế bầy mưu, cùng dân tộc đuổi quân, tìm địch.
Tổ quốc cũng rất mong chờ ở chư ông vậy.
Thuở trước, bô lão Diên Hồng(25) sắt đanh chống giặc,
Phụ huynh tỉnh Nghệ, trâu rượu khao quân(26),
Chưa diệt quân thù, lão tướng Đặng Dung(27) vẫn mài dao dưới nguyệt,
Chưa bình giặc nước thì ông Quang Khải(28) luôn cướp giáo ngoài quan.
Nối chí người xưa,
Lập công ngày mới!
Trên nối gót cụ Thái công nhà Chu(29)
Dưới chen vai ông Tổ Địch nước Tấn.
Tổ quốc cũng thiết tha mong chờ ở chư ông như vậy.
Than ôi!
Đập trứng phá tổ, thù này chẳng đội trời chung,
Nếm mật nằm gai(30), ngày tới trỗi lên cứu nước.
. NGUYỄN SĨ TẤN
________
1. Vua Đế Tân cuối đời Thương Ân (1766-1122 trCN) dân gọi là Trụ (nghĩa là tàn ác, bất nhân, thác loạn). Quan huyện Châu Ký là Tô Hộ liên kết với Cơ Xương dùng mỹ kế Đát Kỷ, nhân đó Cơ Phát (con Cơ Xương) diệt Trụ lập nhà Chu (1122-256 trCN).
2. Lã Vọng Khương Tử Nha (trước 1135trCN) giúp Chu Văn vương diệt Trụ, trở thành tướng quốc nhà Chu.
3. Hồ là tên chung gọi các bộ tộc Man, Di, Nhung, Địch…ở tây bắc Trung Hoa mà người Hoa Hạ cho là rợ hoặc giặc trời.
4.5. Tổ Địch tự Phạm Dương, người huyện Tú (Hà Bắc) thời Tấn Nguyên đế (317-322) đánh giặc Hồ. Xả thân vì nước. Ông gõ chèo trên sông Trường Giang mà thề:“ Tổ Địch bất năng thanh Trung Nguyên, bất phục tế dã!”- Tổ Địch này nếu không dẹp yên được đất Trung Nguyên thì không qua sông này nữa.
6. Vua Quang Trung (1753-1792) chết đột ngột năm 39 tuổi. Nguyễn Quang Toản nối ngôi, bị Nguyễn Ánh diệt năm 1802.
7. Giặc Pháp nổ súng đầu tiên ở Đà Nẵng 27-6-1858.
8. Năm 1945. bọn phiệt Nhật chiếm miền Bắc nước ta, trưng thu hết lúa gạo. Bắt nhổ lúa trồng đay. Hai triệu người bị chết đói.
9. Phan Đình Phùng (1885-1896) quê Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhà thơ, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Cần Vương chống Pháp.
10. Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học (1902-1930) người sáng lập và là Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái chống Pháp.
11. Núi Tản Viên, Ba Vì, Hà Nội và sông Cửu Long ở Nam Bộ.
12. Theo Hiến ước Pháp là nước dân chủ theo thể chế cộng hòa.
13. Bọn Tàu Tưởng, lúc nhúc 20 vạn quân bị gậy vào miền bắc nước ta danh nghĩa giải ráp quân Nhật. Song thực chất quấy nhiễu, phá phách, kiếm ăn.
14. Ở miền Nam, quân Anh lót đường cho Pháp tái lập thực dân. Ngày 23-9-1945 toàn Nam Bộ kháng chiến chống Pháp.
15. Hiệp định sơ bộ Pháp Việt ký 6-3-1946 giữa Jean Sainteny và Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm 4 điều: a-.Công nhận Việt Nam là quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và khối Liện hiệp Pháp. b-. Việt Nam đồng ý cho 15 ngàn quân Pháp thay thế 200 ngàn quân Tưởng ở miền Bắc và Pháp phải rút khỏi Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm 3 ngàn. c-Pháp đồng ý trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ việc thống nhất Việt Nam. d- Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay tức thì ở Nam bộ.
16. Ở Fontainebleau, đàm phán thất bại. Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet và Việt Nam (Vũ Hồng Khanh, đại diện) ký Tạm ước 14-9-1946 tại Pháp. Nội dung có 9/11 điều cơ bản. Mục đích ta hòa hoãn để có thời gian chuẩn bị kháng chiến.
17. Trong bài hịch của Lý Mật kể tội Tùy Dạng đế (569-617): Chặt hết trúc Nam Sơn cũng không thể nào ghi hết tội ác. Dù dốc cạn biển Đông cũng không thể rửa hết tội…
Nam Sơn nằm giữa tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây, Trung Quốc.
18. Đồng cừu: Cùng lòng căm thù.
19. Núi Thái Sơn:(Đông Nhạc, có ngọn Nhạc trượng) trong Ngũ Nhạc,thuộc tỉnh Sơn Đông. Thần thoại Trung Hoa, Đông Nhạc đại đế họ Kim Hồng là cha của tứ nhạc. Thường được so sánh với sự việc hệ trọng, to lớn. Ví dụ Công cha như núi Thái Sơn.
20. Thủ tướng chính phủ ở miền Nam do Pháp nặn.
22. Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Văn Hoạch… lãnh tụ và trung ương Quốc Dân đảng. Không có thực lực. Không có tín nhiệm. Chủ trương giải phóng dân tộc dựa nước ngoài và Trung Hoa Quốc dân đảng. Trong nước, họ thường hành động bắt cóc, tống tiền và thủ tiêu.
21. Bảo Đại (1913-1997) tự Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, vua triều Nguyễn, thoái vị năm 1945. Được Bác Hồ mời làm cố vấn.
23. Nước Tấn bị người Hồ đánh chiếm năm 317, vua quan nhà Tấn bỏ thành đô Lạc Dương chạy về Tân Đình, Giang Đông. Tả Bộc xạ Bá Nhân (Chu Nghi) thương non sông nhà Tấn lệ chảy ròng ròng. Lúc ấy Tư Mã Duệ đang thống lĩnh quân ở Kiến Nghiệp, Nam Kinh đứng lên lập Đông Tấn, xưng Tấn Nguyên đế.
24. Hán Lưu Bang đã diệt xong Tần và đánh bại Hạng Vũ ở Cai Hạ năm 201trCN, giành được ngôi thế bá chủ thì toan đem quân chinh phục Tây Vực tiêu diệt các tộc Ngũ Hồ. Nhân truyện bàn ở rừng trúc bị lộ, quân của Thiền Vu lấy cớ, đánh.trước.
25. Tháng Chạp, Giáp Thân 1284, trước nạn giặc Thát, Thượng hoàng Trần Thánh tông chủ trì hội nghị bô lão kỳ cựu ở điện Diên Hồng ngay trước tết, nhằm xét lòng thành và khơi lòng yêu nước. Vua hỏi Hòa hay chiến? Các cụ hô vang Quyết chiến!
26. Lê Chiêu Thống cầu viện, Tàu cử Tôn Sĩ Nghị thống suất 29 vạn quân Mãn Thanh đánh chiếm nước ta. Ngày 17-12-1788 chúng tới Thăng Long. Ngày 21-12-1788, Nguyễn Huệ cho đắp đàn ở núi Bân và lên ngôi Hoàng đế. Ngày 26-12-1788 đại quân đến Nghệ An. Nhân dân reo mừng giết trâu, mổ bò, rượu thịt thết đãi. Mùng 5 tết Kỷ Dậu (30-1-1789) quyết chiến Ngọc Hồi. Tướng giặc Hứa Thế Thanh, Thượng Duy Thăng tử trận. Đại thắng, Quang Trung áo bào vương khói súng tiến vào Thăng Long.
27.Đặng Dung (?-1414) người Can Lộc, Hà Tĩnh. Tham gia khởi nghĩa của Trần Ngỗi chống giặc Minh năm 1407-1414.
28. Thượng tướng Trần Quang Khải (1241-1294) nhà Trần.
29. Khương Tử Nha tự Lã Vọng, hiệu Thái công, câu cá với lưỡi câu thẳng trên sông Vị, chờ dụng tài. Được Văn Vương tìm, ông đã hết lòng phò tá diệt Trụ, dựng nghiệp Tây Chu. Khương được chia đất Tề sau này thành nước Tề (1048-221 trCN)
30. Sử ký: Việt vương Câu Tiễn (505-465 trCN) bị vua Ngô Phù Sai bắt, cho vợ chồng Câu Tiễn ở nhà đá, chăn ngựa. Vì chí phục thù đã nếm cả phân vua Ngô. Được tha, dùng tiếp kế mỹ nữ Tây Thi. Câu Tiễn đêm nằm trên đống củi gai. Lối đi qua lại, treo túi mật đắng. Ra vào thì nếm và nói:“ Nhữ vong Cối Kê chi sỉ da?”- Mày quên cái nhục Cối Kê rồi sao? Nhờ tướng quốc Phạm Lãi và Văn Chủng, năm 473trCN Việt vương Câu Tiễn đã xóa sổ nước Ngô, trả được cái nhục 17 năm về trước.